Thưa Thầy,
Thầy có ý kiến như thế nào khi một vị tăng sĩ PGNT phì phèo điếu thuốc trên tay, ngang nhiên phạm vào giới điều thứ 5: không uống rượu và dùng chất say. Theo thầy ta có nên cấm không, nhất là các vị tăng trẻ?
Xem câu trả lời
Giới điều thứ 5 thuộc về uống các chất có men làm cho say. Hút thuốc không thuộc giới điều này. Trong luật cũng không có chỗ nào nói cấm hút thuốc vì vậy một số sư mới hút thuốc mà không ai cấm được. Tuy nhiên, theo thầy thì hiện nay y học đã chứng minh hút thuốc có hại cho người hút và cả người phải bị ngửi mùi thuốc lá nên thuốc lá đã bị cấm ở nhiều nơi, như trên máy bay, trong phòng hội họp v.v… và chỉ được hút thuốc ở phòng quy định mà thôi. Cho nên chư tăng, nhất là chư tăng trẻ, vị nào chưa biết hút thuốc thì không nên tập hút thuốc, vị nào đã hút thì nên bỏ, và nếu bỏ không được thì nên hút chỗ kín đáo để không gây ảnh hưởng đến người khác, về cả mặt vệ sinh lẫn thẩm mỹ.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Xin Thầy giảng dùm con Kệ Pháp Cú số 29. Cám ơn Thầy.
Xem câu trả lời
Kệ Pháp Cú số 29 dạy: “Tinh cần giữa những người phóng dật, tỉnh thức giữa những kẻ cuồng mê, bậc trí như con tuấn mã, bỏ lại sau lưng đám ngựa yếu hèn. Đức Phật luôn khen ngợi những người sống thận trọng, tinh cần, vì đó là pháp dẫn đầu tất cả thiện pháp. Trước khi viên tịch Ngài cũng dạy: “Hữu vi là vô thường, hãy thận trọng chớ có phóng dật”. Người luôn tinh cần tỉnh giác sẽ dễ dàng vượt thoát phiền não khổ đau, trong khi những kẻ phóng dật mê muội vẫn mãi đắm chìm trong luân hồi sinh tử.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính Bạch Thầy. Đầu năm mới con kính chúc Quý Thầy, Quý Cô một năm mới dồi dào sức khỏe. Hôm nay là ngày mùng 5 Tết Canh Dần 2010, chỉ còn 3 ngày nữa là tới ngày cúng sao hạn. Hằng năm gia đình con đều cúng nhưng năm nay con quyết định không cúng nữa. Đức PHẬT nói rằng mọi việc của con người trên cõi đời nầy đều do Luật Nhân Quả thì không lý gì chúng ta lại cầu sao giải hạn. Con thấy có chùa khuyên Phật Tử không nên cúng, có chùa lại ghi danh cúng là sao? Xin Thầy cho con một lời chỉ bào. NAM MÔ A DI DA PHAT.
Xem câu trả lời
Sao hạn có thể là sự tương quan giữa nhân quả nghiệp báo với năm tháng ngày giờ. Môn Tử Vi định ra tên của những vì sao để biểu trưng cho những sự kiết hung tốt xấu khác nhau. Ví dụ một người quá khứ gieo nhân xấu nên tái sinh vào năm tháng ngày giờ có những sao tương ứng để nhận quả xấu theo chu trình vận hành nhân quả. Đây là một phát kiến khá thú vị giúp con người qua đó thấy ra phần nào nghiệp quá khứ của mình. Theo Phật giáo thì mỗi người có thể chuyển nghiệp của mình bằng cách “Tránh ác, làm lành và thanh tịnh tâm ý” chứ không phải cúng ông sao nào cả (vì sao là hình ảnh tượng trưng chứ không phải là ngôi sao thật). Tuy nhiên, nếu cúng có ý nghĩa là tạ ơn hay sám hối những lỗi lầm của mình trước Tam Bảo, Ông bà cha mẹ hay Chư Thiên là điều đáng làm.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy, con xin hỏi, một người trên bước đường tu tập, tự bản thân họ có thể biết trình độ tu tập của họ tới mức độ nào không? Con cám ơn Thầy.
Xem câu trả lời
Nếu một người biết chánh niệm tỉnh giác, tức luôn thận trọng, chú tâm, quan sát chính mình thì có thể tự biết trình độ tu tập của mình. Trong tu tập, khám phá chính mình để thấy ra đâu đúng đâu sai, đâu chân đâu giả, v.v… thì người đó đồng thời cũng khám phá ra căn cơ trình độ của mình. Những phương pháp tu hướng ngoại, hoặc chỉ mong cầu ở sở đắc trong tương lai hay ở một nơi nào khác thì khó biết được trình độ của minh. Còn người thấy ra đâu là pháp, đâu là ngã, đâu là tập khí sinh tử thì họ có thể thấy ra căn cơ trình độ tu tập của mình một cách dễ dàng.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Xin Thay cho con biet Thay da giai thoat chua? Neu giat thoat roi thi giup con giai thoat luon. Chu song o day sao thay kho qua? Cam on Thay
Xem câu trả lời
Chính tâm trạng nôn nóng muốn giải thoát đã làm con không chịu nổi khổ đau. Khi con thấy khổ đau là bài học để con thấy ra chính mình và bản chất cuộc sống thì con sẽ biết trân quý nó và con sẽ vô cùng cám ơn những nỗi khổ đau đã giúp con giác ngộ sự thât. Chỉ có giải thoát khi nào con giác ngộ ra sự thật. Tuyệt đối không có cách nào để giải thoát được khi con vãn chưa thấy ra sự thật về chính mình và cuộc sống. Ví như khi con lạc vào rừng, không phải chỉ nôn nóng muốn thoát ra là thoát ra được, mà con phải sáng suốt biết rõ khả năng của minh và nhẫn nại khám phá những nguy hiểm của khu rừng ấy thì mới tìm thấy đường ra. Hãy học từ đau khổ bài học giác ngộ giải thoát.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Sư.
Con có hai câu hỏi:
1- Đạo Phật có nói về Tha Lực va Tự Lực.
Tự lực bằng Giới Định Tuệ.
Tha lực là nhờ vào sự hộ trì của chư Phật.
Phái Mật Tông thường tổ chức rất nhiều Lễ Tịnh Hoả, Lễ cầu nguyện…
Theo Sư, tu tập bằng Tự lực có đủ không?
Cầu nguyện quá nhiều như vậy có phải là mê tín không?
2- Sư nói khi lạy Phật Thích Ca là kính nhớ công đức, bi trí tuyệt vời của Phật chứ không phải cầu nguyện Phật, vì Phật không thể làm nên ước mơ của Phật tử.
Riêng Phật Di Đà, Phật Dược Sư, Quán Thế Âm… Cầu nguyện các Phật nầy thì sao?
Tóm lại chúng con có nên cầu nguyện không, hay chỉ “lặng lẽ” tu để giải thoát thôi?
Con nghe theo lời khuyên của một Thầy, nên trước bàn Phật con hay nguyện câu nầy: “Con nguyện đời đời kiếp kiếp quy y tam bảo. Xin ơn trên gia hộ cho đệ tử đời đời kiếp kiếp gặp được chánh pháp và chân minh sư”. Thầy nghĩ sao về điều nầy?
Kính thư.
Chúc Hân
Xem câu trả lời
1) Khi còn bản ngã thì còn tự lực và tha lực. Một em bé tất nhiên cần tha lực của mẹ cha v.v… Nhưng khi lớn lên em phải phát huy tự lực vì tự lực là nhân, tha lực chỉ là duyên. Khi không còn bản ngã nữa thì hoặc tự lực và tha lực là một hoặc không cần tự lực tha lực gì cả. 2) Cầu và nguyện là hai việc khác nhau. Cầu là xin hay mong được một điều gì đó cho mình hoặc người khác, vì vậy thường dựa vào tha lực. Nguyện là quyết tâm làm một việc gì đó cho mình hoặc người khác, vì vậy cần tự lực nhiều hơn. Ví dụ nguyện giữ giới, nguyện hồi hướng, nguyện sống vô ngã vị tha v.v. 3) Người tu tập cần dựa vào tự lực thì mới nhận được tối đa sự trợ giúp của tha lực. Ví dụ một em học sinh phải siêng năng học tập thì mới học được nhiều bài học từ thầy cô. Nếu em không chịu học tập thì thầy cô giảng chỉ làm em nhức đầu thêm mà thôi. Tự mình phải biết tiếp thu những nguồn trợ lực để phát huy tự lực cho đến khi có thể tự lập thì không nên dựa vào tha lực nữa. Ví dụ như một người bị thương phải nhờ vào xe lăn mà đi, nhưng khi đã khỏi thì phải tự tập đi chứ không nên ngồi xe lăn mãi. Cha mẹ nuôi dạy con chỉ muốn con khôn lớn để có thể tự lập chứ không ai mong con cái ỷ lại vào mình. Chư Phật cũng vậy, chỉ khai thị cho chúng sanh biết tự giác ngộ giải thoát. Nếu ai không tự nỗ lực thì dù cho cầu Phật gia hộ cũng không thoát khỏi phiền não khổ đau trong luân hồi sinh tử. Đức Phật dạy: “Mỗi người là nơi nương nhờ của chính mình, không ai khác là nơi nương nhờ cho mình được. Khi đã trở nên thuần tịnh thì chính mình là nơi nương nhờ tối thượng”. Vì vậy “Mỗi người hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, xin thầy cho con được hỏi trong cuộc đời mỗi con người thì làm việc gì là giúp ích được lớn nhất và cho nhiều người nhất ạ? Con xin cảm ơn thầy.
Xem câu trả lời
Theo thầy thì việc tốt lớn nhất và cho nhiều người nhất là tự giác giác tha, nghĩa là tự mình giác ngộ giải thoát và giúp người khác hiểu đúng, sống đúng Chánh Pháp để họ khỏi sa đọa vào đường ác.
Nhưng sao con lại thích làm việc gì lớn nhất? Theo thầy thì nên tùy duyên mà làm việc thiện để giúp ích người khác, nghĩa là ai cần giúp thì mình giúp dù giúp cho ít hay nhiều người cũng nên làm. Làm đúng khả năng và vị trí của mình chứ không nên tham vọng làm quá sức mình. Ví dụ một em học sinh siêng năng học tập đúng cấp đúng lớp đúng bài vở của mình là việc làm lợi ích nhất và cho nhiều người nhất trong vị trí hiện nay của em ấy.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Xin Sư giải thích giúp con ngũ ấm xí thạnh khổ là như thế nào?
Ngũ ấm hay ngũ uẩn là 5 yếu tố trong chuỗi tùy thuộc nhau và cùng nhau phát sinh, tạo thành sự vận hành của nhân quả, nghiệp báo. Năm yếu tố này là:
1- Sắc uẩn: gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. 2- Thọ uẩn: gồm các cảm thọ khổ, lạc, hỷ, ưu và xả. 3- Tưởng uẩn là tri giác, nhận biết đối tượng và hình thành khái niệm. 4- Hành gồm 50 tâm sở thiện, bất thiện và trung tính. 5- Thức là nội dung của những loại tâm khác nhau.
Khi năm yếu tố này yếu mạnh không đồng đều và không điều hòa với nhau thì sẽ sinh ra phiền não khổ đau, nên gọi là ngũ ấm xí thạnh khổ. Ví dụ sắc quá thịnh hay quá suy, cảm giác quá mạnh hay quá yếu, tri giác quá nhiều hay không đủ, phản ứng khi thuận khi nghịch, khi thiện khi ác, tâm thức khi tĩnh khi động, khi mê khi sáng v.v… nên tạo ra phiền não khổ đau, goi là ngũ ấm xí thạnh khổ.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính lễ Tam Bảo.
Thưa Sư, con đã đọc trang Vấn Đáp Phật Pháp do Sư trả lời. Con học hỏi rất nhiều. Con đê đầu kính lễ tam bái. Con có câu hỏi như sau:
Con ở hải ngoại. Con muốn dâng Y Kathina cúng dường đến chư Sư ở một nước khác (ví dụ ở Việt Nam, ở Úc), con gởi tịnh tài về Việt Nam (hoặc Úc) rồi nhờ người mua vải… Con làm thế có được không?
Cám ơn Sư nhiều. Nguyện Từ lực Tam Bảo gia hộ chư Sư pháp thể khinh an, chúng sanh hằng độ.
Xem câu trả lời
Nếu con không thể về Việt Nam hay đi Úc v.v… để trực tiếp sắm sửa lễ phẩm, y bát để dâng y thì con có thể nhờ bạn bè hay thân nhân của con ở những nơi đó thay mặt con làm tất cả phước sự liên hệ đến lễ dâng y Kathina giúp con. Nếu không có bạn bè, thân nhân ở đó thì con có thể liên hệ với chùa nào con xin dâng y để gởi tịnh tài về đó nhờ Ban Hộ Tự trong chùa thực hiện lễ dâng y giúp con cũng tốt.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kinh bạch sư!
Xin cho con biết núi Tu-di vị trí ở đâu? Có phải là núi
Hy-mã-lạp-sơn hay không? Cũng như vậy, Bắc Cu-lưu châu;
Đông Thắng-thần châu ở đâu? Vì theo khoa học vũ trụ hiện đại
thì trong Thái dương hệ chỉ có 09 hành tinh nhưng chỉ có trái đất là có sự sống. Con xin cám ơn Sư rất nhiều.
Xem câu trả lời
Không gian vũ trụ theo Thái dương hệ là không gian ba chiều, trong khi không gian Đức Phật nói đến là bao gồm chiều kích thứ tư, thứ năm v.v… Kết cấu của loại không gian này chúng ta không thể thấy được bằng mắt thường hay kính viễn vọng. Vì vậy khó mà định được Núi Tu-di, Bắc Cu-lô châu, Đông Thắng-thần châu v.v… ở đâu. Ngay trên trái đất chúng ta có những cõi giới vô hình mà phần lớn chúng ta trong tầm nhìn không gian ba chiều không thể thấy, chỉ có một số nhà ngoại cảm, những người có thần nhãn v.v… mới thấy được. Núi Tu-di cũng như các châu nói trên vượt ngoài không gian ba chiều của chúng ta nên chúng ta không thấy làm sao định vị được?