Vì mục đích sau này có thể xuất gia, con tình nguyện giữ một số giới thuộc về giới bản của tỳ khưu có tốt và có phước không thưa thầy hay như vậy là quá vội vàng? (Chẳng hạn như những giới thuộc tăng tàn hoặc ba-dật-đề mà người cư sĩ cũng có thể mắc phải). Xin thầy cho con lời khuyên. Con xin cảm ơn.
Xem câu trả lời
Tất nhiên có ý nguyện sau này xuất gia mà bây giờ con tập giữ giới tỳ-khưu trước càng tốt vì như vậy sau này giữ giới sẽ dễ dàng hơn. Giữ giới dĩ nhiên có phước, tuy nhiên con nên giữ giới để ngăn ngừa hành động nói năng sai trái hại người hại mình thì tốt hơn là cầu phước. Con càng thoát được những sai trái thì càng nhẹ nhàng thanh thoát, ung dung tự tại, đó không phải là phước sao? Thầy cũng đã làm như vậy một thời gian trước khi xuất gia.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, mỗi khi tâm con lo lắng bồn chồn, con hay niệm thầm “tinh tấn, tinh tấn” lặp lại nhiều lần thì có khi con thấy hiệu quả hơn là niệm Phật Pháp Tăng như miêu tả trong sách Thanh Tịnh Đạo. Khi niệm “tinh tấn” lặp lại một thời gian như trên con thấy tâm hoan hỷ và định tĩnh lại. Từ điều trên con thắc mắc là có phải niệm bất kỳ một khái niệm nào mà khiến tâm mình định tĩnh trở lại thì cũng đều có thể coi là pháp tu tốt phải không thưa thầy?
Xem câu trả lời
Niệm gì không quan trọng, mà niệm thế nào mới đáng quan tâm. Mục đích của niệm là thoát khỏi thất niệm, tạp niệm và vọng niệm để đưa tâm đến nhất niệm hay định tĩnh. Vậy nếu con niệm “tinh tấn” mà định tĩnh được là đã đạt được mục đích của niệm rồi. Đức Phật giới thiệu nhiều đề mục khác nhau là để mỗi người tự chọn sao cho thích hợp và hiệu quả với mình là được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy. Phi hữu ái (trong 3 ái của tập đế) được hoàn toàn đoạn diệt tại thời điểm nào thưa thầy? Xin thầy giải đáp.
Xem câu trả lời
Phi hữu ái chính là tâm sân. Tâm sân chỉ hoàn toàn đoạn diệt khi đắc đạo quả A-na-hàm. Câu hỏi của con chỉ giúp con có kiến thức phong phú thêm về lý thuyết kinh điển thôi. Con nên hỏi thực hơn một tí, ví dụ như: “Khi tâm đối kháng với cái không như ý (một phản ứng của phi hữu ái), con nên có thái độ thế nào?” Như vậy con sẽ có câu trả lời hữu ích từ thầy hoặc từ chính con tự thấy ra ngay trên sự kiện hiện thực đó.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, con đã thỏa mãn với câu hỏi trước về sinh là khổ và sinh ở đây không phải là sinh nở mặc dù sinh nở cũng là khổ. Vậy xin thầy hãy giải thích cho con cái khổ thứ hai “già là khổ”. Con xin cảm ơn!
Xem câu trả lời
Sinh lão bệnh tử là ám chỉ luân hồi sinh tử. Vì vậy, nói sinh lão bệnh tử, sinh trụ dị diệt hay thành trụ hoại không thì cũng cùng một nghĩa tương ứng với những sự kiện khác nhau mà thôi. Nếu con đã hiểu sinh thì già, bệnh, chết cũng đều nói lên tính vô thường biến hoại của tất cả pháp hữu vi duyên hợp. Nhất là nhấn mạnh hữu vi tâm lý tức phản ứng tạo tác của tâm. Khi vô minh, không định tĩnh sáng suốt để thấy sự thật (thực tánh pháp) thì liền phát sinh ý muốn trở thành (ái dục), trong ý muốn này nội hàm hai đối cực: muốn thoát tình trạng hiện tại (sân), muốn lặp lại tình trạng quá khứ hay đạt đến trạng thái ảo ở tương lai (tham). Ý muốn trở thành thúc đẩy ý chí (thủ) cố gắng tạo tác để trở thành (hữu). Đây chính là toàn bộ nguyên nhân của sinh – lão tử mà chúng ta thường gọi là luân hồi sinh tử. Hình tướng già nua, bệnh tật chỉ là biểu hiện bên ngoài của bản chất biến hoại vô thường do hữu vi tạo tác. Cũng cần nhận ra rằng vì lâm vào giữa hai đối cực tham và sân mà đánh mất thực tại để thấy biết rõ ràng minh bạch. Đó chính là mê muội bất an (si) làm cho vô minh ngày càng được củng cố sâu dày. Sở dĩ thầy không chỉ giải về khổ già một cách cục bộ mà nói dài dòng như vậy để con thấy nó trong toàn cảnh mà con có thể chiêm nghiệm nơi chính mình, chứ không phải chỉ thu thập kiến thức về những mảnh vụn cô lập.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Sư ông! “Hữu duyên thiên lí năng tương ngộ”. Nhờ vậy mà con “Có duyên đối diện tỏ ngộ liền.” (Nhưng chắc con ngộ chút ít thôi, hihi)
Con thật sự cám ơn Sư ông và quý độc giả của trang website này, vì thông qua các câu hỏi và lời đáp rõ ràng con học tập được nhiều điều đáng quý.
Cách đây không lâu con có dự khoá giảng thiền của Sư ông, tâm con rất hoan hỷ. Đến ngày cuối của buổi học sau khi ra khỏi cổng chùa, con tự nhủ: “Dù cho có nhiều luận giải hay đến đâu đi chăng nữa cũng là ảo vọng thôi, nếu hôm nay con không có nhân lành thì sẽ không bao giờ nghe được những lời chân thực như thế” Rồi tự nhiên con cảm hứng thốt lên 2 câu như thế này: “Kiến giải bất vi vô vọng giả. Vô nhân bất biến mặt anh tài.”
Bạch sư ông, con không hiểu câu này có diễn đúng ý của con không? Thật sự con không hiểu chữ Hán nhiều lắm! Kính mong sư ông chỉ dạy thêm.
Sư ông biết không! Sau buổi tối đó trên đường về con gọi điện thoại cho sư Bửu Phước để hỏi nhưng sư bảo là hỏi Sư ông hay hơn. Con không dám làm phiền sư ông, nhưng hôm nay đành làm phiền Sư ông vậy. Con cám ơn Sư Ông. Chúc Sư Ông Thọ Thọ.
Con thấy ra những gì sư ông giảng là sư ông không phí công vô ích rồi. Cám ơn con nhiều lắm. Hai câu cảm hứng ngữ của con ý thật hay, chỉ cần sửa và sắp lại vài chữ cho đúng ngữ pháp là hơn cả tuyệt vời đó con. Sư ông đề nghị như sau:
“Tri kiến vô vi bất vọng giả. Vô vi tất diện bản lai nhân”. Nghĩa là: Thấy biết không do tâm tạo tác thì không phải là vọng, tâm không tạo tác hẳn gặp lại con người thật nơi chính mình. Không biết như vậy có đúng ý con chưa? Có thể là con muốn nói nhờ duyên học Đạo với sư ông mà thấy ra chánh pháp nên con kính trọng sư ông, nhưng sư ông sửa lại một tí với ý nghĩa là qua chánh pháp đó nhờ tâm con không tạo tác nên thấy ra thực tánh nơi chính mình. Nếu hiểu được chánh pháp nhưng tự mình không thấy pháp thì chỉ cách một tí thôi vẫn còn vọng đó con ạ.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, trong kinh Niệm xứ thường lặp lại: “vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm.” Thưa thầy đã an trú chánh niệm rồi sao còn phải “hướng đến” chánh niệm nữa ạ? Như vậy chẳng phải giống như tìm cái mình cần tìm trong khi nó đang nằm trong tay không ạ?
Xem câu trả lời
Câu hỏi của con thật thật tuyệt vời. Từ lâu mỗi lần giảng đến đoạn kinh trên thầy đều phải đính chính cụm từ “với hy vọng hướng đến” này. Cụm từ này có nguyên văn Pàli như sau: “…yàvad eva ñàna-mattàya patissati-mattàya”. Yàvad eva có nghĩa là “tới…cần thiết” hay “vừa đủ” (as much as it is necessary). Mattàya có nghĩa là với mức độ. Vậy cụm từ trên dịch là: “Với mức độ niệm tuệ vừa đủ”. Do đó đoạn kinh trên nên được dịch là: “Vị ấy an trú niệm như vậy với mức độ tuệ tri và ức niệm vừa đủ”. Bởi vì chánh niệm tỉnh giác dư hay thiếu đều không thể thấy được thực tánh pháp. Trong cụm từ Pàli trên không hề có một dấu hiệu nào là “với hy vọng hướng đến” cả. Đọc kinh nhất là đọc bản dịch thật nguy hiểm, vì tam sao thất bổn, do đó cần đối chiếu với nguyên văn và nhất là đối chiếu với sự thật tự mình thực chứng mới đúng được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, trong kinh Niệm Xứ có nói đến quán thọ trên nội thọ, quán thọ trên ngoại thọ và quán thọ trên nội ngoại thọ. Con thắc mắc ngoại thọ ở đây là gì? Có phải là cảm thọ của người khác không? Và nếu là cảm thọ của người khác thì chỉ người khác cảm nhận được chứ ta làm sao có thể quán được? Xin thầy giải đáp. Con xin cảm ơn.
Xem câu trả lời
Khi thấy người khác có cảm thọ khổ biết đó là cảm thọ khổ. Vì một người biết rõ cảm thọ khổ nơi tự thân thì cũng dễ dàng thấy rõ cảm thọ khổ nơi người khác. Cảm thọ khác nhau trên hiện tướng của mỗi người nhưng vẫn giống nhau trên thực tánh, vì vậy không cần cảm nhận trên hiện tướng vẫn thấy được thực tánh. Ngay cả khi quán thọ bên trong tự thân cũng không cần quan tâm đến hiện tướng mà chỉ thấy ra thực tánh mà thôi. Nếu không thấy rõ điều này mà niệm thọ thì chỉ thấy tướng chứ không thể nào thấy tánh được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Xin thầy giải thích vắn tắt cho con cái khổ đầu tiên trong Khổ Đế: sinh là khổ. Con xin cảm ơn ạ.
Xem câu trả lời
Sinh là khổ do nghiệp tạo tác (hữu), nghiệp tạo tác là do dính mắc (thủ) ý muốn trở thành (ái), ý muốn trở thành do vô minh. Như vậy sinh là quả của vô minh, ái dục và tác nghiệp, vì vậy nó dẫn đầu trong các quả khổ sinh, lão, bệnh, tử cùng với sầu, bi, khổ, ưu, não. Chữ sinh ở đây không ám chỉ việc sinh nở, mặc dù sinh nở cũng là khổ.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy! Con có hùn phước cất chùa. Một Cô tu nữ khuyên con nên thường xuyên niệm tưởng phước thí ấy, nhưng con không có kinh nghiệm thực tập niệm thí. Xin thầy dạy cho con một số gợi ý về phương pháp thực tập niệm thí để con có thể ứng dụng. Con xin cám ơn thầy.
Xem câu trả lời
Niệm thí là nhớ lại một việc thiện đã làm trong quá khứ với mục đính tự nhắc mình luôn hoan hỷ với điều thiện. Trong đời sống không phải ai cũng có thể chỉ làm thiện mà không làm ác, vì vậy nhắc lại điều thiện đã làm để luôn an trú thân tâm trong thiện pháp, vì nhớ lại điều thiện cũng chính là một hành động của thiện tâm, dù lúc đó con không làm được một việc thiện gì bên ngoài như san sẻ, cúng dường, phục vụ v.v… Nhất là khi tâm con đang có chiều hướng bất thiện thì việc nhớ lại điều thiện để tự nhắc mình không rơi vào việc ác thì rất tốt. Tuy nhiên, không nên nhớ lại việc thiện với tâm tự mãn, ngã mạn, thấy mình có công đức v.v… vì cái tâm nhớ đó là bất thiện. Trong trường hợp đó quên đi có khi tốt hơn. Nếu một người tâm luôn an trú trong thiện pháp, thường làm việc thiện thì nên chú tâm vào việc thiện hiện tại hơn là nhớ về điều thiện trong quá khứ. Và trường hợp người sống chánh niệm tỉnh giác thì chẳng cần phải nhớ gì trong quá khứ cả, dù là quá khứ thiện hay bất thiện.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thầy dạy: “Chỉ nên thư giãn, buông xả và theo dõi động tác thở một cách hoàn toàn tự nhiên thì lập tức chánh niệm tỉnh giác tự ứng khởi, an lạc cũng liền phát sinh, mà không tầm cầu hay ham muốn sở hữu điều gì”. Đây có phải là “định tuệ đẳng trì” không thưa thầy? Cứ vậy mà tu là đúng yếu chỉ của thiền quán?
Cảm ơn thầy vì lời dạy giản dị, rõ ràng, cốt tuỷ và xác thực!
Xem câu trả lời
Cũng không cần gọi tên động thái đó là gì vì như vậy lại rơi vào ý niệm và kết luận. Chỉ cần thể nghiệm và thực chứng điều đó thì con tự thấy biết pháp một cách chân thực mà không cần đặt tên hay so sánh trạng thái đó với bất cứ cái gì khác, bởi vì ngay khi mình toan đặt tên hay so sánh thì pháp vừa mới hiển lộ liền bị che lấp mất rồi. Thầy hoan hỷ khi thấy con đã nhận ra được điều cốt lõi này.