Kính thưa sư, bên Bắc tông có kinh Vu Lan báo hiếu cha mẹ gồm hai phần, một phần kể về ngài Mục Kiền Liên xuống địa ngục tìm mẹ, một phần Đức Phật dạy hàng đệ tử về công ơn cha mẹ. Có vị Hòa Thượng pháp sư thuyết pháp nói rằng không có việc ngài Mục Kiền Liên xuống địa ngục mà do ngài nhớ những chuyện mẹ ngài đã làm nên mới xin nhờ Đức Phật dạy cách để mong hồi hướng cho mẹ. Qua đây con muốn hỏi những kinh điển mà không do Phật thuyết hay do mọi người hư cấu thêm bớt vào thì có phải là kinh không? Mọi người đọc tụng làm thế nào phân biệt được? Ngoài ra giữa kinh Nam tông và Bắc tông có nhiều khác biệt, xin sư chỉ dạy để chúng con hiểu rõ đâu đúng đâu sai để được học theo đúng lời Phật dạy. Con cảm ơn sư.
Kinh Vu-lan báo hiếu là do người sau soạn ra, trong đó một phần có dựa trên sự kiện có thực vào thời đức Phật, như việc Ngài Moggallana nhớ lại kiếp xưa bất hiếu với mẹ, và thấy ngạ quỷ sống đói khát đau khổ nên hỏi Phật làm thế nào để giúp cho hạng chúng sinh này thoát khỏi cảnh khổ. Đức Phật dạy đặt bát cúng dường chư Tăng để hồi hướng phước trợ duyên cho loài ngạ quỷ này được nương phước lực và tâm lực mà thoát khỏi cảnh khổ của mình. Còn những chuyện khác, như Đức Phật quỳ lạy đống xương mà khóc vì thấy đó là cha mẹ mình trong kiếp quá khứ, hoặc Ngài Mục-kiền-liên đem cơm xuống địa nguc.. cơm biến thành than v.v… là hư cấu. Người sau soạn kinh này chủ yếu là để khuyến khích lòng hiếu thảo đối với cha mẹ nên cũng tốt, nhưng muốn báo hiếu thật sự thì phải làm cho đúng pháp mới có kết quả, nếu chỉ cúng giỗ hoặc cầu nguyện không thôi thì không được lợi ích gì cả.
Câu hỏi về KInh Nam Tông và Bắc Tông hơi rộng, thầy đang viết về điều này trong Chương 10 cuốn sách Sống Trong Thực Tại (Thực tại hiện tiền 2), con nhớ đón đọc. Có một điều dễ nhận nhất là Kinh Nam Tông viết bằng tiếng Pali, và cố gắng giữ trung thực lời dạy của đức Phật. Kinh Bắc Tông viết bằng tiếng Sanskrit lâu sau đức Phật Niết-bàn, cố gắng triển khai lời dạy đức Phật cho hợp với căn cơ trình độ mọi người.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con nghe nhiều vị giảng sư thuyết pháp rất hay, nhưng làm sao để biết vị ấy giảng đúng hay sai? Xin thầy chỉ dẫn cho con.
Xem câu trả lời
Con vui lòng đọc bài Kinh Kalama(Tăng Chi Bộ Kinh / Chương Ba Pháp / Phẩm VII: Phẩm Lớn / 65) thì sẽ được chính Đức Phật trả lời câu hỏi này một cách rất đầy đủ. Thầy xin trích một đoạn chính trong Kinh như sau:
“Này các người Kālāma, đừng vội tin vì nghe kể lại, đừng vội tin vì theo truyền thống, đừng vội tin vì lời đồn đãi, đừng vội tin vì kinh điển lưu truyền, đừng vội tin vì lý luận hay, đừng vội tin vì có công thức, đừng vội tin vì có suy tư về sự kiện, đừng vội tin vì chấp nhận định kiến, đừng vội tin vì có vẻ thích hợp, đừng vội tin vì “vị Sa môn này là thầy mình”. Này các người Kālāma, khi nào tự mình biết rõ: Đây là pháp bất thiện, đây là pháp lầm lỗi, đây là pháp bị người trí chỉ trích, pháp này nếu đem thực hành sẽ đưa đến khổ đau bất hạnh; thì này các người Kālāma, các người hãy từ bỏ chúng. Nhưng này các người Kālāma, khi nào tự mình biết rõ: Đây là pháp thiện, đây là pháp không lầm lỗi, đây là pháp được người trí ca ngợi, pháp này nếu đem thực hành sẽ đưa đến an lạc hạnh phúc, thì này các người Kālāma, các người hãy chấp nhận và hành trì”.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy, con có quen một người bạn và người ấy có nói rằng: “Việc ngồi thiền không phải cốt yếu là ngồi lâu, nếu một người ngồi một giờ đồng hồ mà tâm loạn hay hôn trầm thì không bằng một người ngồi 30 phút mà tâm nhiếp được trong thiền định.” Do đó người bạn này chỉ ngồi 30 phút và hướng dẫn cho những người khác mới tập cũng như vậy.
Con thầy rằng điều đó đúng chứ không có gì sai. Nhưng con nghĩ rằng: Nếu một người ngồi thiền cũng chừng ấy thời gian, mà tâm họ loạn thì vẫn thua một người cố gắng ngồi một giờ mà thỉnh thoảng tâm họ vừa có an định vừa có loạn chứ!
Hơn nữa nếu một người ngồi được 30 phút mà tâm họ an định được, thì chắc chắn người này có khả năng ngồi được lâu hơn nữa chứ không chỉ giới hạn trong 30 phút.
Bởi vì khi tâm có an định thì đồng thời có khinh an, mà đã có khinh an thì cũng phát sinh hỷ lạc và họ cảm thấy không còn đau đớn về thân, do đó có thể ngồi kéo dài thêm vẫn được!
Hơn nữa, với kinh nghiệm của bản thân, thì con thấy rằng khi mới bắt chân vào ngồi thiền thì những giây phút đầu tiên, tâm rất khó yên tĩnh. Nhưng càng về cuối, nhất là từ 30 phút trở lên thì tâm con mới có phần làm chủ được và yên lắng hơn.
Như vậy, việc tu thiền không quy định ở thời gian nhiều hay ít, mà quan trọng là sự khéo léo, uyển chuyển của mỗi người, để tìm cho mình một sự tĩnh tâm sáng suốt và đạt được chánh niệm tỉnh giác. Còn việc người ấy đạt tới đâu là do kinh nghiệm của tự thân và tự biết lấy, chứ người ngoài làm sao thấy được để mà so sánh hơn thua!
Con có những thắc mắc như vậy, kính nhờ Thầy chỉ dạy thêm để chúng con tu tập có kết quả hơn. Con xin cảm ơn Thầy.
Việc ngồi thiền đúng là không quan trọng thời gian. Mà đã không quan trọng thời gian thì sao lại phải qui định 1 giờ hay 30 phút? Ngồi bao lâu không quan trọng mà ngồi với thân tâm như thế nào mới đáng quan tâm. Đừng cố ngồi nhiếp tâm thiền định, cũng đừng cố tinh tấn để mau đắc tuệ, vì cố đạt tới định hay tuệ tức đã tạo ra thời gian, lúc đó dù ngồi ít ngồi nhiều thì vẫn bị thời gian chi phối. Đã bị thời gian chi phối sao gọi là định, tuệ được? Thời gian, sở đắc đều là những sản phẩm của bản ngã tham sân si, thì ngồi làm gì cho nhiều để tăng thêm bản ngã? Mục đích của định tuệ là thấy ra thực tánh vô thường, khổ, vô ngã của thân tâm thì thậm chí không ngồi vẫn thấy. Tốt nhất trước khi ngồi thiền nên tự hỏi: “Ai ngồi thiền” để không bị bản ngã, thời gian và ảo tưởng đánh lừa.
Đừng tách rời định tuệ mà tu, cứ ngay tại đây và bây giờ, đừng nghĩ tới thời gian trước hay sau đó. Tâm thư giãn buông xả, rỗng rang trong sáng thì liền ngay đó có đủ chánh niệm tỉnh giác, có đủ định tuệ cả rồi, sao phải cố gắng đạt được định tuệ nào nữa để cho bản ngã, thời gian và sở đắc xen vào? Nếu có tính thì nên tính xem ngay trong sát-na hiện tại con có trọn vẹn rỗng rang trong sáng hay không mà thôi. Để ý niệm thời gian xen vào thì sát-na định tuệ duy nhất đã mất. Lúc ấy chỉ có bản ngã thời gian và đau khổ thôi, lấy gì mà tu định tuệ đây? Nhớ là đừng mất thời gian tranh luận, đừng để mất giây phút tại đây và bây giờ quý báu này trong vô minh ái dục.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính Bạch Thầy. Thầy cho phép con được hỏi: Con có xem băng đĩa của một giảng sư nọ. Thầy đó có nói ở những nước quốc giáo (Phật Giáo) người Phật tử thường đọc bài Kinh Hạnh Phúc và dùng nó làm kim chỉ nam. Mà con tìm trong web nầy không biết ở đâu. Vậy xin thầy chỉ cho con. Con chúc Thầy nhiều sức khỏe để dìu dắt chúng con trên đường đạo.
Để thầy cho đưa bài Kinh Hạnh Phúc (Mangala Sutta) cả nguyên văn Pàli lẫn Việt ngữ lên mục Thư Viện để con đọc. Bài kinh này dạy người Phật tử 38 pháp để sống đời sống hạnh phúc cao thượng. Đoạn cuối của bài Kinh là : “Khi xúc chạm việc đời, tâm không động không sấu, tự tại và vô nhiễm, là phúc lành cao thượng”.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy cho con được hỏi: Hiện nay có một vị tu hành tự xưng là đã chứng quả A-la-hán, điều đó đã tạo nên sự mến mộ của rất nhiều người vì họ cũng muốn tu theo phương pháp vị đó chỉ dạy để đạt được kết quả như vậy. Nhưng theo con hiểu: Việc tu để đạt kết quả giải thoát và làm chủ sinh tử ngay trong đời này là điều không hợp lý với nhân quả. Bởi vì mình đã gây tạo nghiệp nhiều từ vô thủy đến nay thì làm sao mà tu chỉ trong một kiếp rồi phủi sạch liền hết tất cả!? Hơn nữa, người tu mà ham giải thoát, ham đạt kết quả liền thì cũng rơi vào trạng thái tham, như vậy cũng là một chướng ngại lớn cho công phu tu tập.
Theo con nghĩ người tu quan trọng là làm chủ được tâm mình, không để vọng tình chi phối, dẫn dắt lang thang. Tu thì cứ tu tinh tấn theo trung đạo, không giải đãi buông lung để cho thân khẩu ý thanh tịnh, thân tâm an lạc ngay trong hiện tại là đúng, chứ tu mà phải gồng mình chiến đấu thật dữ dội không những chỉ tham lam mà còn dễ sinh bệnh nữa. Con không biết suy nghĩ của con như vậy có đúng không, kính mong Thầy giải thích.
Con nói đúng, tu là phải nhận ra chính mình tại đây và bây giờ, nếu không con có thể bị cái ta ảo tưởng lôi cuốn theo tham vọng muốn trở thành (ái, thủ, hữu) của nó. Tham vọng muốn trở thành chính là động cơ của luân hồi sinh tử. Sở dĩ bản ngã nôn nóng và quyết liệt muốn trở thành là vì nguyên nhân vô minh,không biết rằng mọi chân lý đều đang ở ngay nơi thực tại hiện tiền, không phải là một hứa hẹn đầy lý tưởng (thực ra là ảo tưởng) ở tương lai. Vì vô minh không thấy ra sự thật tại đây và bây giờ (sandiṭṭhiko, akāliko) nên bản ngã chống lại sự thật trong hiện tại (sân) và mong cầu sở đắc lý tưởng ở tương lai (tham).
Con chỉ cần chánh niệm tỉnh giác đối với hành động, nói năng, suy nghĩ ngay trong hiện tại thì bản ngã vọng động, không còn cơ hội dụ dỗ một hứa hẹn ảo tưởng ở tương lai. Bản ngã tham sân si không còn vọng động, thì tâm con rỗng lặng trong sáng, đó là giới định tuệ. Cứ hành đúng giới định tuệ thôi, còn đắc đạo quả là việc vận hành tự nhiên của pháp, không phải do nỗ lực theo ý chí vọng cầu của con. Ví như, tưới bón đúng không lười biếng bỏ mặc, là việc của con, còn ra trái là việc của cây ổi, không phải do ý chí vọng cầu của con. Nếu con vọng cầu và nỗ lực quá mức thì không những con tự chuốc lấy căng thẳng khổ đau mà còn làm cho cây ổi không ra trái được nữa, hoặc chết non cũng không chừng.
Theo giới luật của đức Phật, một vị tỳ kheo tuyên bố mình đắc đạo quả này nọ là khoe pháp bậc cao nhân, một trong bốn điều trọng luật, tội rất nặng gọi là bất cọng trụ. Tuyên bố này chỉ dành cho đức Phật khi ấn chứng cho hàng đệ tử để xác nhận một vị đã giác ngộ giải thoát khỏi sự trói buộc (kiết sử do bản bản vô minh ái dục tạo ra) ở mức độ nào, nhằm tránh sự khoe khoang cá nhân của người chưa đắc mà tưởng đã đắc, hoặc sự hiểu lầm của hàng Phật tử tự ý đánh giá vị thầy của mình là bậc thánh này nọ.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy! Con thấy hình như hơi mâu thuẫn ở chỗ, người tu để không còn tham sân, nhưng thầy lại lấy cái không còn tham sân để tu (vì không còn tham sân xen vào cái thấy thì sẽ thấy được Pháp như thực, để trả lại nó như nó đang là…) Mong thầy hoan hỷ giải đáp giúp con ạ. Con cảm ơn thầy nhiều lắm ạ.
Tại bạn cứ dùng lý trí để lý luận nên mới thấy khó hiểu. Sao bạn không làm trên thực tế để thấy ra một cách trực tiếp thì dễ biết bao. Ví dụ lúc trước không biết tu thì nghe ai nói xấu bạn giận liền, bây giờ bạn đang chánh niệm tỉnh giác nên tâm sáng suốt, đình tĩnh, trong lành vì vậy mà khi nghe nói xấu bạn không khởi tham sân si nữa. Đơn giản chỉ có thế thôi. Còn khi đã không còn tham sân si nữa thì cứ thế mà sống tùy duyên thuận pháp vô ngã vị tha chứ đâu cần lý luận gì nữa.
Đức Phật dạy có 4 hạng người: 1) Từ tối tới tối: là hạng người đã tham sân si lại lấy tham sân si mà xử lý. 2) Từ sáng tới tối: là hạng người đang lúc không có tham sân si nhưng không biết dùng nên khi đụng chuyện lại để tham sân si khởi lên. 3) Từ tối tới sáng: là hạng người đang có tham sân si nhưng liền biết có tham sân si, sự chánh niệm tỉnh giác đó gọi là không tham sân si. 4) Từ sáng tới sáng: là hạng người đang lúc không có tham sân si thấy biết rõ ràng không có tham sân si. Hai hạng người sau chính là những người lấy không tham sân si để sống tùy duyên thuận pháp vô ngã vị tha mà thầy đang hướng dẫn Phật tử.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thua Thay, da tu lau trong tam con luon thay rang, cuoc doi nay chi la tam bo va luon bat toan. Moi bien co khong hay co the xay ra voi con bat cu luc nao. Thoat dau con rat lo lang va phien muon. Ve sau, su viec nay cang hien ra trong tam con thuong xuyen hon. No den voi con nhu mot loi canh cao hay nhac nho. Bay gio, that tinh con khong con muon nghi ngoi tinh toan nhieu o tuong lai, con chi biet hom nay la viec cua hom nay, ngay mai la viec cua ngay mai. Neu cuoc doi la tam bo va bat toan thi can gi lo lang so hai hay tinh toan muon phien nhieu? Va vi the ma con cung cam giac duoc la trong su “nhac nho” nay con kham pha ra duoc nhieu bai hoc rat qui bau, chi la chua duoc ro va thong suot cho lam ma thoi. La mot nguoi Thay Tri Tue va thiet thuc, xin Thay cho con them vai loi khuyen day. Thanh kinh tri an.
Con nhận thức như vậy là đã đúng hướng. Cứ như vậy mà tu tập thì con sẽ khám phá sự thật rõ ràng hơn. Tuy nhiên, cần phải lưu ý, nhận thức đúng nhưng nếu chưa kinh qua trải nghiệm thì vẫn còn là lý chưa phải là sự. Có ba yếu tố giúp con giác ngộ:
1) Nhận thức đúng: Tức chánh kiến, là thấy biết đúng bản chất của sự thật, đồng thời thấy ra tính hư ảo của bản ngã tham sân si. Thấy biết sai thì hành động, nói năng, suy nghĩ đều sai. Đó là lý do vì sao chánh kiến được đứng hàng đầu trong Bát Chánh Đạo. Không qua tánh thấy rỗng lặng trong sáng đó con không thể nào có được nhận thức đúng. Vậy con hãy thường tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác; sáng suốt, định tĩnh, trong lành hoặc thận trọng, chú tâm, quan sát vì đó là những yếu tố giúp con nhận thức đúng.
2) Vượt qua chướng ngại: Khi còn bản ngã tham sân si thì còn có cái ta đương đầu với chướng ngại, do vậy chướng ngại là thử thách để con thấy ra phản ứng của bản ngã, nhờ đó con thấy ra mức độ tồn tại của bản ngã như thế nào. Không có trở ngại thì những thành tựu chỉ nuôi lớn bản ngã mà thôi. Đừng sợ chướng ngại, đó là thước đo xem bản ngã có còn đó hay không. Trước chướng ngại hãy xem lúc đó chỉ có pháp hay chỉ là bản ngã đang đối kháng lại chướng ngại ấy. Cũng cần lưu ý, thuận lợi cũng là chướng ngại, vì khi được thuận lợi con sẽ sinh tham lam. Hãy xem, qua đó con có dính mắc không? Dính mắc và đối kháng là hai mặt tham sân của bản ngã. Khi nào con thấy chướng ngại là thực tánh pháp và tánh thấy cũng là thực tánh pháp, không còn bóng dáng của đối kháng hay dính mắc thì ngay đó mới thật sự là vô ngã, thật sự sống tùy duyên thuận pháp. Vậy vượt qua chướng ngại không phải là hủy diệt hay trốn tránh chướng ngại mà là vượt qua cái bản ngã tâm lý tạo ra chướng ngại ấy (hay nói cách khác là vượt qua sự đối kháng hay dính mắc đối với cái gọi là chướng ngại ấy mà thôi).
3) Thể hiện đức vô ngã vị tha: Nếu con thấy vô ngã trên lý thuyết nhưng trong hiện thực con vẫn ích kỷ thì chỉ có lý mà chưa có sự. Vậy con cần thể nghiệm đức vô ngã vị tha bằng cách thể hiện thành hành động, nói năng, suy nghĩ cụ thể để xem có còn bản ngã vị kỷ hay không. Phật dạy pháp Ba-la-mật không phải là để tích lũy công đức cho bản ngã mà chính là để thể hiện đức vô ngã vị tha. Hơn nữa chúng ta giác ngộ được là nhờ cuộc đời dạy cho chúng ta thấy rõ bản chất của chính mình và thế giới xung quanh, cho nên cuộc đời là ân huệ lớn lao, tạo điều kiện cho chúng ta học bài học giác ngộ giải thoát. Vậy hành động lợi lạc quần sinh cũng chính là đền ơn cuộc đời vậy. Tuy nhiên, cần phải cảnh giác, hành động vị tha không vô ngã thì chỉ làm tăng trưởng bản ngã thôi.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy cho con được hỏi 1) Con biết rằng khi xúc phạm đến một vị cao Tăng đức độ thì có tội rất nặng, vậy làm sao để hết tội? 2) Ăn chay niệm Phật để hồi hướng phước đến cha mẹ khi cha mẹ còn sống như vậy có thể hiện được chữ hiếu không? Và cha mẹ có được phước như hồi hướng đến người đã quá vãng không?
1) Xúc phạm đến ai cũng đều có tội cả huống chi xúc phạm đến bậc cao Tăng đức độ. Vì vậy nếu không sám hối trực tiếp với vị ấy thì ít nhất cũng phải biết lỗi và sám hối trong lòng để thành tâm sửa đổi lỗi lầm. Từ nay phải cung kính đảnh lễ cúng dường các bậc chân tu đức độ và thận trọng thân khẩu ý đối với các vị ấy. Có một hành giả hánh thiền hoài không kết quả. Khi vị thiền sư hỏi người ấy trước đây có làm gì sai trái với Tam Bảo không, người ấy mới nhớ lại là đã xem thường một vị sư trẻ. Thiền sư bảo phải sám hối với vị ấy. Sau khi sám hối người ấy hành thiền đạt kết quả ngay. Tuy nhiên nếu thấy một vị sư sai trái thì nên góp ý xây dựng, nếu vị ấy tỏ ra ngã mạn, tự tôn, không nhận lỗi, không biết sửa sai, thì có quyền chấm dứt quan hệ với vị ấy. Đó không phải là xúc phạm Tăng.
2) Hồi hướng là chia sẻ phước đến người khác nên có thể hồi hướng cho cả người sống lẫn người chết như nhau. Việc ăn chay niệm Phật để hồi hướng phước đến cha mẹ là rất tốt, nhưng khi cha mẹ còn sống thì không phải chỉ hồi hướng không thôi mà còn phải biểu hiện cụ thể bằng hành động, lời nói, suy nghĩ đem lại lợi ích vật chất lẫn tinh thần cho cha mẹ nữa. Sống lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha cũng là việc làm gián tiếp đền ơn cha mẹ, vì đã biết dùng thân cha mẹ sinh thành nuôi dưỡng để làm lợi cho đời. Việc làm cụ thể đó chính là cách tu tập tốt nhất chứ không phải chỉ ăn chay niệm Phật mà thôi.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy! Con có đọc ở 1 số trang web về tái sanh và luân hồi có đoạn viết như sau: “TÁI SINH: Nếu được tái sinh trở lại cõi người, thần thức của người ấy thấy cha mẹ tương lai của mình đang nằm với nhau. Nếu người ấy tái sinh thành người nam thì phát khởi tâm muốn chiếm hữu người mẹ mà rất ghét người cha. Nếu tái sinh trở thành người nữ thì ngược lại. Nhưng vì không thể thực hiện được ý muốn của mình, do đó họ nổi giận, chính cơn giận này đã làm chấm dứt thân trung ấm của họ và thần thức của họ được chuyển qua đời sống kế tiếp, bằng cách nhập vào bào thai của người mẹ và bắt đầu với hình dáng của một con người. Khi ấy tinh cha và huyết mẹ được kết hợp với thần thức của người ấy, họ tự nhiên và dần dần phát triển thành một con người.”
Con không biết cách lập luận như vậy đúng hay sai, con cảm thấy không đúng nhưng hiểu biết của con hạn hẹp nên không biết chính xác là thế nào mong thầy giải thích cho con hiểu. Con xin cám ơn thầy.
Xem câu trả lời
Sự tái sinh là có thật, nhưng có nhiều giải thích lại không đúng vì chỉ dựa trên suy luận hơn là thực tế. Nói chung điều gì không kliểm chứng được thì đừng vội tin, và cũng không nên tìm hiểu sâu về vấn đề này. Học Phật chủ yếu là đi vào cốt lõi của sự tu tập. Biết nhận thức đúng về bản chất chính mình và cuộc sống để sống đúng quy luật của pháp gọi là minh. Có minh thì không có luân hồi sinh tử. Không thấy biết đúng bản chất thực tại gọi là vô minh. Vô mính sinh ái dục, ái dục sinh nghiệp tạo tác, Tạo nghiệp nên mới có sinh, có tử, có tái sinh và có phiền não khổ đau. Đó là nghĩa đích thực của sự tái sinh.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy, Kinh luật Phật giáo Nguyên thuỷ có cho phép người Tăng ăn ngũ vị (hành, ngò, tỏi, …) không? Cảm ơn Thầy.
Xem câu trả lời
Giới luật Nguyên Thủy không cấm những thứ gia vị đó. Người sau thấy đó là những chất kích thích nên khuyên chúng ta không nên ăn. Thực ra tất cả cây cỏ đều có vị thuốc của nó, nếu biết dùng đúng liều lượng, đúng chỗ, đúng trường hợp thì cái gì cũng tốt. Ngược lại, dùng không đúng thì thứ gì cũng có thể trở nên tai hại. Tốt nhất là chúng ta nên cẩn thận khi dùng thực phẩm dù đó là loại nào.