Kính bạch quý thầy, con có một vấn đề trong cuộc sống đời thường có ít nhiều liên quan đến Phật pháp mà con đã được nghe, đó là yêu thương muôn loài. Nhà con nuôi chó cảnh, nó đẻ mỗi lứa con thu được hơn triệu đồng. Nhưng sở thích nơi con chó phốc là phải cắt đuôi, mình không cắt đuôi chó thì khó bán, nếu họ mua rẻ thì về nhà họ cũng cắt đuôi. Con cứ áy náy chẳng biết nên xử lý ra sao. Kính mong quý thầy chỉ giáo giúp con. Nam mô Bổn sư Thích ca Mâu Ni Phật.
Xem câu trả lời
Theo thầy thì nếu nuôi chó vì thương yêu loài vật thì không sao. Nhưng nếu nuôi để buôn bán, nghĩa là kiếm sống nhờ vào sự sinh sản của nó thì vẫn là tà mạng, dù có cắt đuôi hay không. Nếu đã phân vân như vậy sao con không bỏ đi cho thanh thản?
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, làm thế nào để chữa được cái bệnh tham kiến thức ạ? Thuần túy nghe người khác chỉ trích bệnh sách vở không làm con biến mất đam mê với kiến thức. Nếu con có thể nói thành thật nhất thì khi con thấy trống trải con thường tìm đến sách báo, thông tin. Liệu có một khả năng cho con có thể chấm dứt ham thích kiến thức đến từ người khác và tự làm ánh sáng cho chính mình?
Xem câu trả lời
Muốn bỏ bệnh tham kiến thức rất dễ. Chỉ cần con phải thấy ra cái thực đàng sau kiến thức đó thì con liền thấy mọi kiến thức đều nông cạn, dù là kiến thức cao thâm nhất. Ví dụ con thấy ra vô thường ngay nơi con và trong đời sống thì con sẽ thấy những giải thích về vô thường đều quá hạn hẹp. Kiến thức giống như lời quảng cáo về một chiếc xe hơi. Hãy mua chiếc xe hơi ấy về sử dụng rồi con sẽ thấy không cần bài quảng cáo ấy nữa.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy, con là một Phật tử tại gia. Con thích đọc Kinh Tạng để hiểu biết về những lời Đức Phật dạy. Con thường nghe những pháp thoại của Thầy, cũng như của các chư Tăng khác, để hiểu rõ thêm về giáo pháp của Phật. Con cũng ứng dụng cách hành thiền theo lời dạy của Thầy. Cách này phù hợp với điều kiện sống của con nên con thấy rất tuyệt vời. Nhưng con không thuộc những bài kinh tụng, không có đi sám hối lệ hàng kỳ, cũng như không có những thời khóa đọc kinh hàng ngày ở nhà như một số các bạn đạo tinh tấn khác. Như vậy là thiếu sót phải không Thầy? Xin Thầy dạy cho con biết là có nhất thiết phải đi sám hối lệ hay không? Nếu phải đọc kinh hàng ngày thì con cần phải đọc những kinh gì (Con thấy có nhiều bài kinh quá)? Và khi đọc kinh như thế thì có được những quả lành như thế nào? Kính mong Thầy hoan hỷ.
Xem câu trả lời
Thường đọc Kinh Phật để thông suốt nghĩa lý, thường nghe giảng để học thêm kinh nghiệm tu học của chư Tăng, thường đàm đạo với những người đồng tu để trao đổi thấy biết và thường biết ứng dụng sự sáng suốt định tĩnh trong lành, thận trọng chú tâm quan sát để sống chánh niệm tỉnh giác trong đời sống hàng ngày là con đã “làm rất nhiều” (như Phật đã dạy). Phật dạy rằng dù một người sống 100 năm mỗi ngày đều đọc tụng kinh điển, bố thí trân châu quí báu nhiều bằng tam thiên đại thiên thế giới không bằng sống trong một giây phút trọn vẹn với Tam Quy. Thầy đã dạy Tam Quy chính là hành động nói năng suy nghĩ sáng suốt (quy y Phật), định tĩnh (quy y Pháp), và trong lành (quy y Tăng), vậy nếu con hàng ngày sống sáng suốt, định tĩnh, trong lành thì còn muốn thêm điều gì nữa cho mất thì giờ. Đi chùa, sám hối, tụng kinh chỉ là tạo cơ hội cho lúc chưa thấy pháp, còn đã thấy pháp rồi thì không đâu không là pháp cả.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Bạch thầy, cho con hỏi: Tâm lý học và Vi diệu pháp có giống nhau hay không, nếu giống thì giống như thế nào? Hằng ngày tâm con sống phóng tâm và hướng ra ngoại cảnh nhiều, con muốn có được chánh niệm thì phải làm sao thưa thầy giúp con.
Tâm lý học là một phần rất nhỏ trong những đối tượng của Vi Diệu Pháp. Tâm lý học chỉ nghiên cứu tâm lý con người, trong khi Vi Diệu Pháp khám phá tánh tướng thể dụng không những của tâm mà còn của tâm sở, sắc pháp (sinh- vật lý) và đặc biệt là Niết-bàn. Như vậy môn Vi Diệu Pháp không phải chỉ nghiên cứu về đặc tính của tâm mà chủ yếu là giúp chúng ta thấy rõ diễn biến hoạt động tương giao giữa tâm lý, sinh lý và vật lý từ đó thấy ra nguyên nhân phát xuất cái đúng và cái sai, cái thiện và cái bất thiện, trói buộc và giải thoát, sinh tử và Niết-bàn v.v…
Có một cách học Vi Diệu Pháp trong đời sống hàng ngày mà không cần qua giáo điển là hãy thường tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác hay thận trọng, chú tâm, quan sát ngay nơi thân, thọ, tâm, pháp vì ở đó đã có sẵn tâm, tâm sở, sắc, Niết-bàn để khám phá trên thực địa chứ không chạy theo từng con chữ mà tìm ý nghĩa trong khái niệm để góp nhặt kiến thức, vì như vậy sẽ trở thành sở tri chướng. Vậy tại sao phải chạy theo ngoại cảnh mà không nhìn lại cái gốc của sự tương giao với bên ngoài đó chính là gốc thân tâm. Trở về gốc để thấy ra ngoài thì đó là chánh niệm, quên gốc mà chỉ thấy ra ngoài thì đó là thất niệm. Thất niệm thì phóng tâm là lẽ đương nhiên.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Dạ thưa thầy! Lúc trước con có ngồi thiền, nhưng bây giờ thì con không ngồi được vì không có thời gian. Nhưng khi con làm bất cứ một việc gì thì con lại chú tâm, quan sát. Vậy nó có ảnh hưởng đến trình độ thiền của con không nếu con chỉ thận trọng, chú tâm, quan sát trong khi làm và không ngồi thiền thường xuyên? Con kính thầy.
Xem câu trả lời
Ngồi thiền thì phải có điều kiện thời gian nơi chốn và không ai ngồi suốt đời được, trong khi suốt ngày nếu con thường tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác hay thận trọng, chú tâm, quan sát trong mọi hoạt động của thân thọ tâm pháp thì con thể hiện giới định tuệ trọn vẹn và tối đa cho việc tu tập mà lại còn làm tròn trách nhiệm bổn phận của con đối với bản thân, gia đình, xã hội… Như vậy con có thể thực hiện được đức vô ngã vị tha, được có dịp thấy rõ mình và cuộc sống. Thiền là minh mà minh chính là thấy rõ bản chất sự thật. Chẳng lẽ sự thật chỉ có trong thế ngồi thôi sao? Đừng nhầm lẫn thiền để thấy sự thật và phá trừ bản ngã với ngồi để tìm sở đắc làm giàu cho bản ngã.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa sư cho con được hỏi, Kinh điển gồm có Pali tạng và Hán tạng đúng không ạ? Theo con hiểu là Pali tạng có giá trị chân thật hơn Hán tạng và là kinh Nguyên Thủy của đức Phật khai thị, có đúng không? Con vẫn thường tin tưởng ở kinh Pali. Con cám ơn sư.
Xem câu trả lời
Con nói đúng. Tạng Pali tương đối trung thực với lời Phật dạy hơn các kinh Sanskrit, Hán Tạng hay Tạng Tibet được trước tác sớm nhất là 200 năm sau đức Phật Niết-bàn. Như vậy về phương diện lịch sử cũng như tính trung thực với lời Phật dạy thì độ tin cậy của kinh Pali cao hơn. Tuy nhiên, những kinh điển sau Pali vẫn có rất nhiều điều trung thực với lời dạy của đấng Giác Ngộ, đó là do sự thực chứng của các vị Tổ trước tác các kinh luận về sau. Như vậy, còn một yếu tồ khác nữa ngoài tính lịch sử và tình nguyên thủy của giáo pháp đó là tính giác ngộ. Kinh điển dù là nguyên thủy hay phát triển về sau thì quan trọng là có chỉ ra được “mặt trăng chân lý” hay không. Nói cách khác là qua kinh điển đó con có giác ngộ được Sự Thật hay không. Đôi lúc một lời nói sai lại giúp con thấy đúng. Vậy quan trọng không phải ở lời nói mà ở chỗ có thấy được sự thật lời nói ấy muốn chỉ hay không. Kinh điển Pali thật tuyệt vời nhưng con đừng quá lệ thuộc vào ngôn ngữ, giáo điều mà qua đó con phải khám phá ra Sự Thật. Khi đã thấy Sự Thật con sẽ biết ngay lời nào nói đúng lời nào nói sai chứ không còn quan tâm đó là kinh điển nào nữa. Chúc con thấy ra Sự Thật.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Bạch Thầy, con hiểu về Chánh tinh tấn như thế này có đúng không ạ: Khi nhìn thấy pháp hay sự kiện như nó là (chánh kiến) thì hành động (hoạt động) về thân khẩu ý của ta mang 4 tính chất: ngăn ác, diệt ác, sinh thiện, dưỡng thiện. Chứ không phải Chánh tinh tấn là thực hiện lần lượt 4 “tiêu chí” trên có phải không ạ?
Đúng. Thường 4 phương diện tinh tấn được thực hiện rất nhiều cách khác nhau tùy từng trường hơp, khi thì yếu tố này trước khi thì yếu tố kia trước, nhưng khi duyên một yếu tố nào phát sinh thì 3 yếu tố kia cũng cùng có mặt. Ví dụ khi chánh niệm phát sinh thì thất niệm bị diệt, không có thất niệm thì chánh niệm được duy trì, chánh niệm được duy trì nên thất niệm không sinh. Đó là tứ Chánh Cần.Tất nhiên không thể tách riêng 4 yếu tố để tu hết cái này qua cái khác.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy, con muốn hỏi trong bài Pháp Thầy giảng ở Perth có nói về sự mầu nhiệm của tụng kinh Pali. Con có đọc một số sách nói rằng ở cõi giới vô hình, họ chỉ nghe bằng tâm ý mà thôi. Khi ta khởi ý nghĩ gì thì họ đều biết được. Vậy thì đâu cần thiết phải tụng ra tiếng họ mới nghe được. Xin thầy giải thích cho con được rõ.
Tụng kinh thầm hay ra tiếng đều được, nhưng đôi lúc tụng kinh ra tiếng cũng có ưu điểm của nó nhờ có sự trợ lực của âm thanh. Khi tụng nên chú tâm lắng nghe lại âm thanh đang tụng đọc. Người Nhật Bản và Tây Tạng tụng kinh rất hùng hồn nên lực rất mạnh, họ còn trợ lực bằng tiếng chuông tiếng trống và các nhạc cụ khác như mõ, kèn v.v… mỗi âm thanh có một tác dụng riêng, như: tiếng trống giúp tinh cần, dũng mãnh, tiếng chuông giúp trầm lắng, chánh niệm, tiếng mõ giúp tỉnh thức, sáng suốt v.v… như vậy những âm thanh đó là phương tiện hỗ trợ cho tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác. Tụng kinh Pali cũng vậy, nhất là khi tụng tập thể, âm thanh cuồn cuộn như tiếng sóng vỗ (hải triều âm) tạo ra dũng lực rất mạnh giúp sách tấn, phấn khởi để xua tan phiền não, ô trược, dễ duôi, buông phóng hay trầm cảm. Tụng thầm thì nên nhắm mắt, chú tâm để cho định lực tập trung cao, hoặc thanh thản buông thư để nhẹ nhàng thanh thoát.
Đối với người âm, thì tâm lực cộng với oai lực của lời kinh (nhất là kinh Pali, vì đó là ngôn ngữ của Phật) được hỗ trợ bởi những âm thanh tạo ra dương khí giúp giải tỏa bớt âm khí của họ nên họ rất ưa chuộng lời kinh tiếng kệ tụng với tâm đức của người tu hành có thể giúp họ siêu thoát.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy!
Xin Thầy cho con biết sự khác nhau và sự liên hệ giữa Niệm và Định trong thiền quán?
Con xin cám ơn Thầy!
Xem câu trả lời
Trong thiền quán giới, định, tuệ đều phải đầy đủ. Trong Bát Chánh Đạo, tinh tấn, niệm và định đều thuộc về định phần, như vậy có chánh tinh tấn và chánh niệm đã là có định rồi. Định trong thiền tuệ chỉ cần sát-na định và tùy thời định chứ không cần an chỉ định (kể cả cận định). Chánh niệm tức là không thất niệm, không tạp niệm và không vọng niệm, nghĩa là trọn vẹn với thực tại thân-thọ-tâm-pháp tại đây và bây giờ. Đó cũng chính là tùy thời định và sát-na định. Người đắc an chỉ định nếu không biết cách hóa giải định này thì sẽ không vào thiền tuệ được. Hầu hết những phiền náo của thiền tuệ đều phát xuất từ định an chỉ. Phật dạy quán niệm 16 hơi thở chính là để hóa giải thiền định chứ không phải để tu thiền định an chỉ như nhiều người tưởng lầm.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy, trong sống tùy duyên thuận pháp thì yếu tố nào quan trọng? Thận trọng, chú tâm, quan sát hay Sáng suốt, định tĩnh, trong lành? Hay là cứ tùy duyên mà cảm ứng? Sống thuận pháp có phải giống như “An mệnh thủ thường” theo thuyết Số mạng hoặc Định mệnh không?
Xem câu trả lời
Sáng suốt, định tĩnh, trong lành và thận trọng, chú tâm, quan sát đều phát xuất từ một góc, đó là TÁNH BIẾT. Khi không bị bản ngã che lấp tánh biết tự có ba đức sáng suốt, định tĩnh, trong lành, nên gọi là tự tánh giới định tuệ. Khi động dụng thì tánh biết tùy duyên ứng ra ba đức thận trọng, chú tâm, quan sát nên gọi là tùy dụng giới định tuệ. Như vậy tùy khi hữu sự hay vô sự mà tánh biết tự ứng, không phải là tính toán của bản ngã. Trong giới định tuệ chế định mới có bản ngã tu tập rèn luyện, nhưng trong tánh biết rỗng lặng trong sáng thì thì giới định tuệ sẽ tự ứng một cách tự nhiên khi không bị bản ngã che lấp. Trong pháp tu này phát hiện bản ngã và buông cái bản ngã lăng xăng ấy là điều tối trọng. Nếu “An mệnh thủ thường” hiểu theo nghĩa trên thì đúng, nhưng nếu là thái độ chấp nhận một cách buông xuôi, thả trôi theo số mệnh thì không đúng. Phát hiện đâu là cái ta ảo tưởng, đâu là thực tánh pháp gọi là MINH. Minh thì thấy pháp và sống thuận pháp chứ không buông xuôi theo định mệnh.