Kính thưa Sư, câu hỏi của con rất sơ cơ. Các sư hay dạy tụi con về nghiệp, quả báu, nhưng làm sao kiếp này mình bố thí, kiếp sau mình giàu sang, phú quý; hay dâng hoa, vô sân thì đươc xinh đẹp… Con thắc mắc vì con mong muốn có một dẫn chứng cụ thể như một phương trình hóa học chẳng hạn. Con kính tri ân Sư.
Đó là luật nhân quả rất tự nhiên. Điều này con có thể chiêm nghiệm trong đời sống hàng ngày nơi bản thân hay nơi những người xung quanh là có thể thấy được. Không cần kiếp sau đâu, kiếp hiện tại cũng chứng minh được điều đó. Ví dụ, khi con sẵn lòng trao tặng, chia sẻ với người khác là con đã giàu rồi. Giàu không phải là có tiền của nhiều, vì lắm người tiền của dư dật mà vẫn vơ vét thêm, không dám chia sẻ cho ai, như vậy là quá nghèo phải không? Và khi nào tâm con sân cứ soi gương mà coi, lúc đó mặt con rất xấu. Một người tối ngày sân thì mặt mày nhăn nhó làm sao mà đẹp được. Ngược lại một người tâm không sân, luôn dịu dàng, hiền thiện, mát mẻ thì mặt mày tươi tắn như hoa sao mà không đẹp được!
Ý nghĩa rất thú vị của cuộc sống là khám phá ra chân lý ẩn tàng trong đó. Nếu con không chịu chiêm nghiệm học hỏi để khám phá sự thật mà nhờ người khác chứng minh thì giác ngộ đâu còn thú vị gì nữa! Hãy quan sát, chiêm nghiệm rồi sự thật sẽ là câu trả lời phong phú và chính xác nhất cho con. Đừng học đạo bằng lý trí thu nhặt những thông tin bên ngoài. Đạo chính là chân lý trong đời sống. Chiêm nghiệm đời sống là bí qyuyết thấy ra sự thật đó con. Chúc con thật hạnh phúc khi khám phá ra những sự thật này.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy. Thời gian gần một năm nay con sống theo cách Thầy chỉ dạy: Nghĩa là sống tùy duyên thuận pháp. Để pháp vận hành tự nhiên mà không để bản ngã lý trí chen vào phê phán, khen chê. Nghe như nghe, thấy như thấy một cách sáng suốt định tĩnh trong lành và thận trọng chú tâm quan sát khi ở thể động. Tuy nhiên có một người “rất thông Đạo” cho rằng cách sống nầy của con chỉ như là “tròng lên một lớp áo mới” cho một bản ngã thích tìm an tránh khổ chứ không thể dứt khổ. Còn việc con nghe như nghe biết như biết, vẫn là qua lăng kính tri thức con đã có sẵn, không thể là cái biết của tánh giác. Xin ý kiến của Thầy. Mong ngày được gặp lại Thầy. Chúc Thầy được anh bình.
Lởi nói của người bạn ấy là một cảnh báo rất tốt để con soi chiếu lại thái độ hành trì của con. Những điều thầy thuyết minh không phải là một công thức phải tuân thủ vì như vậy đàng sau còn tiềm ẩn một bản ngã muốn thu hoạch một lý tưởng nào đó. Sáng suốt, định tĩnh, trong lành là bản chất thanh tịnh hồn nhiên của tánh biết tự soi chiếu chứ không phải là một cố gắng giữ tâm sáng suốt, định tĩnh, trong lành. Khi động dụng, tánh biết cũng tự ứng sự thận trọng, chú tâm, quan sát một cách tự nhiên, không phải là một cố gắng để cho mọi sự được như ý muốn. Đừng xem những điều thầy chỉ ra cho thấy là một phương pháp tu hành để đem ra áp dụng. Chính thầy cũng thấy trong nỗ lực của con vẫn còn phảng phất ít nhiều ý chí của bản ngã. Đó là chỗ mà người bạn con nói là “tròng lên một lớp áo mới cho một bản ngã thích tìm an tránh khổ”. Thiền chính là khám phá ra cái bản ngã ẩn sâu đằng sau cái gọi là “tu tập” ấy. khi cái ta ảo tưởng bị khám phá không còn lăng xăng hành động nữa, thì ngay đó sáng suốt, định tĩnh, trong lành, hoặc thận trọng, chú tâm, quan sát sẽ tùy duyên thuận pháp mà tự ứng ra. Nên thầy gọi đó là sống tùy duyên thuận pháp vậy.
Tuy nhiên, góp ý của người đó giúp con cảnh giác thôi, nhưng mỗi người cứ tùy căn cơ trình độ của mình mà hành rồi sẽ thấy ra, chứ làm sao mà ngay từ đầu muốn toàn bích được. Cầu toàn như vậy khiến con phân vân nghi hoặc rồi rơi vào lý suông không dám vào sự thì cũng vẫn là vọng làm sao thấy ngã, pháp!.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, thầy dạy thiền trong mọi sinh hoạt đời sống, khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, chứ không giới hạn ỏ hình thức ngồi thiền. Nếu vậy tại chùa Bửu Long có thời khóa ngồi thiền không? Cách thực tập thế nào? Con chưa được biết, xin thầy chỉ dạy.
Xem câu trả lời
Hiện nay chùa đang xây tháp nên chỉ có ngồi thiền sau thời kinh sáng và tối thôi. Vào 3 tháng An Cư Kiết Hạ thường chư Tăng, Tu nữ và Phật tử tùng hạ có thời khóa ngồi thiền nhiều hơn. Thực ra, ngồi hay không ngồi không quan trọng, vì trong đời sống hàng ngày thì lục căn tiếp xúc với lục trần, khi ngồi thiền thì cũng vẫn lục căn tiếp xúc với lục trần không khác, chỉ có khác là trong điều kiện động hay tĩnh mà thôi. Trọng điểm của thiền là chánh niệm tỉnh giác đối với thân thọ tâm pháp, nghĩa là tâm thường sáng suốt, định tĩnh, trong lành trong quan hệ căn – trần – thức. Do đó trong thiền Tứ Niệm Xứ, riêng niệm thân thì đối tượng là đi, đứng, ngồi, nằm hay tất cả sự đều được chứ không giới hạn trong hình thức ngồi mới gọi là thiền như nhiều người hiểu lầm. Nếu ai hợp với ngồi thì cứ ngồi, nhưng quan trọng là có thật sự chánh niệm tỉnh giác hay không, hay ngồi chỉ để mong cầu sở đắc (tham), chống lại tình trạng không vừa ý (sân), khiến tâm phân vân bất định (nghi), rồi lại cố kìm chế tâm làm cho nó bị dồn nén và rơi vào vọng mống lung tung (trạo hối) cho đến khi mệt mỏi sinh ra lười chán (hôn trầm thụy miên). Ngồi thiền như vậy chỉ tạo thêm chướng ngại, chi bằng đi làm việc gì đó với tâm vị tha rồi ngay đó mà chánh niệm tỉnh giác thì tốt hơn nhiều.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy cho con hỏi, người hành thiền lấy thước đo nào để nhận biết mình tu tập có tiến bộ?
Mục đích hành thiền là để không bị trói buộc trong trong vô minh ái dục biểu hiện rõ trong cái ngã tham sân si. Vậy tiến bộ được đo lường bằng mức độ đoạn giảm được sự dính mắc trói buộc trong ảo tưởng của cái ta tham sân si ấy. Nghĩa là tâm càng rỗng lặng trong sáng càng thấy rõ bản chất thật của các pháp và ít bị trói buộc bởi vô minh ái dục. Do đó đức Phật dạy: “Không tham ưu, không nương tựa, không dính mắc điều gì ở đời” . Nên nếu con hành thiền mà bớt được cái ta tham ưu, nương tựa, dính mắc là có tiến bộ, nếu tăng thêm bản ngã thì có nghĩa là trói buộc cũng tăng.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
1. Thưa sư, con muốn hiểu sâu hơn về Phật giáo Nam tông và Bắc tông.
2. Trong thời mạt pháp, con nghe nói pháp môn niệm Phật là pháp môn thù thắng nhất trong tám vạn bốn ngàn pháp môn (vì đây là pháp môn dễ thực hiện nhất đối với tất cả mọi người già, trẻ) phải không sư?
1) Con nên vào xem lại phần đầu của cuốn Thưc Tại Hiện Tiền, hoặc cuốn Thiền Phật Giáo: Nguyên Thủy và Phát Triển, trong đó thầy đã trình bày rõ về câu hỏi của con.
2) Nói Pháp Môn Niệm Phật dễ dàng nhất cho mọi căn cơ trình độ thì đúng, nhưng nói thù thắng nhất trong 84000 Pháp môn thì không đúng. Pháp môn nào phù hợp với căn cơ nào đó, giúp căn cơ ấy giác ngộ giải thoát thì pháp môn ấy là thù thắng đối với căn cơ trình độ ấy, nói như vậy có lẽ đúng hơn. Theo tinh thần Kinh Kalama đức Phật dạy thì: Đừng vội tin những điều người khác phán đoán mà phải tự mình xem điều đó khi đem ra thực hành có giúp con giác ngộ giải thoát không. Nếu điều nào đưa đến mê tín và lệ thuộc thì có nghĩa là đi ngược lại với mục đích giác ngộ giải thoát.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy, con có một số thắc mắc xin thầy giải thích cho con.
1. Theo con hiểu thì đạo Phật xoay quanh vấn đề làm sao để con người thoát khổ. Nhưng khi khổ, vừa sinh lên ý nghĩ muốn thoát khổ đã rơi vào phi hữu ái. Vậy ngay khi đó họ lại chuốc thêm một cái khổ khác ngoài những cái khổ của sinh lão bệnh tử. Như vậy căn bản của việc tu đã vướng vào nghịch lý này ngay từ đầu.
2. Vừa rồi thầy có dạy: “thường lặng lẽ biết mình”. Con không hiểu chữ “mình” ở đây nghĩa là gì. Có phải là thân, thọ, tâm, pháp hay chỉ là tâm của mình?
3. Thầy có dạy về chánh pháp, tượng pháp và mạt pháp. Chánh pháp là chỉ thẳng vào sự thật. Sau này vì các vị Tổ thấy căn cơ người học chưa đủ sức để nhận ra từ chánh pháp nên dùng phương tiện như niệm Phật, tham công án, khán thoại đầu, trì chú, v.v… Như vậy nếu học theo tượng pháp thì hành giả có phương pháp để hành, còn học theo chánh pháp thì hành giả phải làm sao? Theo những gì con đã học được thì có những cách sau:
a. Sáng suốt, định tĩnh, trong lành hay thận trọng, chú tâm, quan sát.
b. Buông bỏ lăng xăng tạo tác khi đối cảnh.
c. Lặng lẽ thường biết mình.
Trong 3 điều trên thì cái nào là cái đầu tiên phải thực hiện hay thực hiện cả 3 cùng một lúc?
Con xin cám ơn thầy.
1) Có hai loại ý muốn: Ý muốn đúng pháp hay thuận pháp và ý muốn nghich pháp hay thuận ngã. Khi đói thì muốn ăn cơm tức là muốn thoát khỏi cái khổ đói, khi lạnh muốn đắp chăn để thoát khỏi cái khổ lạnh, v.v… muốn thoát khổ như vậy thì không có gì sai pháp. Đó không phải là phi hữu ái. Một ví dụ khác khi bệnh con đến bác sĩ khám, bác sĩ chẩn đoán bệnh đúng và cho thuốc đúng nên cứ theo toa mà uống thì 3 tháng sẽ khỏi. Nhưng người bệnh lại muốn khỏi ngay cho nên uống thuốc đó một lần để khỏi kéo dài 3 tháng. Đó là ý muốn sai pháp, do ghét bệnh và thích mau hết bệnh nên mới tham sân và không những không khỏi bệnh mà còn chuốc lấy thêm đau khổ. Diệt khổ trong đạo Phật không phải là cố gắng loại trừ khổ đó đi vì/bằng bản ngã tham sân, mà “diệt bằng trí tuệ” nghĩa là do sáng suốt, định tĩnh, trong lành mà thấy rõ bản chất thật của khổ, thấy rõ nguyên nhân của nó, nên không tiếp tục tạo ra nhân khổ thì khổ tự diệt nên gọi là diệt khổ. Như vậy diệt khổ là không tạo tác nguyên nhân sinh khổ. Không tạo tác thì chấm dứt khổ sao gọi là nghịch lý? Vậy muốn biết con có tu thuận lý hay nghịch lý thì phải xem ý muốn tu của con thuận pháp hay nghịch pháp mới được.
2) “Mình” là một đại từ chỉ thân thọ tâm pháp hay nói tắt là thân tâm hoặc danh sắc, không phải chỉ riêng cái tâm. Sắc là mắt tai mũi lưỡi thân, và danh là tánh biết biểu hiện qua các thức gọi chung là tri kiến. Cũng có khi “mình” bị chấp lầm thành cái ta ảo tưởng. “Thường lặng lẽ biết mình” là cách phát hiện ra trong cái gọi là “mình” ấy đâu là thuần túy danh sắc, đâu là cái ta ảo tưởng. Sự khám phá minh bạch này chính là thiền Vipassanà hay thiền kiến tánh.
3) Thực ra khi buông cái ta lăng xăng tạo tác xuống thì tánh biết liền “lặng lẽ thường biết mình”, vì khi không bị bản ngã che lấp thì tánh biết trở về với bản chất sáng suốt, định tĩnh, trong lành hoặc tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác. Vậy những điều này xảy ra đồng thời. Còn khi hữu sự thì tánh biết lại tự ứng ra sự thận trọng, chú tâm, quan sát để thực hiện sự việc đó, khi hết việc, tánh biết lại trờ về rỗng lặng trong sáng. Nên thiền mới nói: “Sự lai nhi tâm thỉ hiện, sự khứ nhi tâm tùy không”. Tóm lại, khi hữu sự thì thận trọng chú tâm quan sát, khi vô sự thì sáng suốt định tĩnh trong lành, nên gọi là thiền tùy duyên thuận pháp vậy.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con thưa thầy, có những lúc con cần niệm tưởng đến Phật, Pháp thì con có thể niệm thầm câu như thế nào ạ? Con cảm ơn thầy.
Xem câu trả lời
Niệm tưởng đến Phật tức hướng tâm đến những ân đức của Chư Phật trong bài kinh: “Iti’pi so Bhagavā, Araham, Sammā Sambuddho, Vijjā-carana sampanno, Sugato, Lokavidū, Anuttaro Purisadamma Sārathi, Satthā Deva-manussānam, Buddho, Bhagavā” (xem cuốn Pháp Môn Niệm Phật của Sư Hộ Pháp). Cũng vậy niệm Pháp là tưởng nhớ đến ân đức của Pháp Trong bài kinh: “Svākhāto Bhagavatā Dhammo: Sanditthiko, Akāliko, Ehipassiko, Opanayiko, Paccattam Veditabo Viññūhi”.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa sư, có phải người giàu, kẻ nghèo, người đẹp, kẻ xấu… tất cả đều do nghiệp? Con người sinh ra sống chết đều có số phải không sư? Còn thuyết luân hồi là thế nào ạ? Và có phải trong tương lai, đức Phật Di-lặc sẽ hạ thế ở cõi Ta-bà? Con cám ơn sư.
Ngoài nghiệp còn có những định luật khác ảnh hưởng đến đời sống con người, nhưng nghiệp là phần mà con người chủ động tạo ra. Ví dụ như ảnh hưởng của mặt trăng, mặt trời, thời tiết, nhân quả v.v… là hiện tượng chung cho mọi người theo nguyên lý tự nhiên trong vũ trụ vạn vật, nhưng thái độ phản ứng hay xử lý đối với những hiện tượng đó thì mỗi người mỗi khác theo tư kiến tư dục của họ. Thái độ hành xử khác biệt này chính là nghiệp, và người ấy phải gặt lấy hậu quả của nó. Cái gọi là số mệnh chính là toàn bộ nội dung mà nghiệp của mỗi người tạo ra cho mình và cuộc sống. Do đó gọi là nghiệp mệnh đúng hơn là số mệnh đã được an bài. Và luân hồi chính là dòng nhân quả nghiệp báo triền miên mà mỗi người gieo và gặt, trả và vay luân lưu bất tận.
Đức Phật Thích Ca tiên đoán vị Phật tương lai của trái đất có tên gọi là Phật Metteyya (Di-lặc).
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy từ bi giảng cho con một cách đơn giản, dễ hiểu nhất, cơ bản nhất để con có thể lĩnh hội được về 7 Pháp giác chi. Con có đọc sách nhưng không hiểu được ạ. Con xin tri ân Thầy.
Một tâm bất an thường ở một trong hai tình trạng thụ động hoặc dao động. Thụ động thì lười chán, buông xuôi, giãi đãi, hôn trầm… Dao động thì nôn nóng, căng thẳng, phóng tâm, tán loạn … Hai tình trạng thái quá đó đã tạo ra đối cực làm mất sự quân bình của tâm. Tâm mất thăng bằng không thể trực nhận được bản chất thật của chính mình và cuộc sống. Thất giác chi là 7 yếu tố giúp quân bình lại hai đối cực, để tâm đủ định tĩnh sáng suốt mới có thể sống tùy duyên thuận pháp.
Trong bảy pháp này thì Chánh Niệm (1) là yếu tố ưu tiên và cơ bản nhất, vì trước hết phải trở về trọn vẹn với thực tại thì mới điều chỉnh lại được sự quân bình của tâm.
Sau khi trở về với thực tại, nếu thực tại là trạng thái thụ động thì cần sử dụng 3 yếu tố:
– Trạch pháp (2)để quan sát rõ ràng thực tại. Nhờ sự quan sát kỹ lưỡng mà tâm tỉnh táo thoát khỏi trạng thái si mê hôn trầm thụy miên.
– Tinh tấn (3) để kích hoạt sự hăng hái phấn chấn. Nhờ sự phấn chấn mà tâm linh hoạt thoát khỏi tình trạng buông xuôi, trầm cảm.
– Hỷ (4) để giúp tâm hân hoan phấn khởi. Nhờ sự hứng thú mà tâm thoát khỏi tình trạng lười chán, giãi đãi.
Nếu thực tại là tình trạng dao động thì cần sử dụng 3 yếu tố:
– Thư thái (5) để làm cho tâm khinh an, lắng dịu. Nhờ sự trầm lắng mà tâm thoát khỏi sự nôn nóng, căng thẳng,
– Định (6) để tâm được an ổn, nhất tâm. Nhờ nhất tâm mà thoát khỏi sự phóng dật, vọng động và tán loạn.
– Xả (7) để tâm buông bỏ, xả ly, nghỉ ngơi vô sự. Nhờ vô sự mà tâm thoát khỏi sự dính mắc, ràng buộc.
Khi hành giả có chánh niệm tỉnh giác đối với thực tại thân tâm thì mới tùy nghi sử dụng được 7 pháp này một cách tự nhiên thuần thục.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Sư ông. Con vô cùng tri ân sư ông đã chỉ cho con thấy được giá trị của Pháp ngay nơi thực tại đang là. Nếu không được sư ông chỉ dạy, con sẽ cứ mãi chìm đắm trong lý luận sách vở không biết ngày nào thoát ra. Con có một số thắc mắc, kính xin sư ông chỉ dạy cho con.
Thứ nhất: Sau khi nghe sư ông dạy thiền vipassanà, con có tham khảo thêm Thiền Tông, thì thấy dung thông, không khác. Về “lý”, nhờ sư ông chỉ dạy rõ ràng nên con đã khá thông suốt. Con cũng luôn thận trọng quay lại chính mình để ngay nơi pháp thực mà sống với “sự” để sự và lý dung thông.. Nhưng con nhận ra rằng có thể tập khí còn nặng nên con không dễ dàng thấy ra pháp và sống thuận pháp một cách thuần thục, nói cách khác là con hiểu nhưng “buông” không được. Vậy khi “lý” đi trước khá xa so với “sự” thì con cần thận trọng điều gì để không bị đi lạc vào con đường của lý trí ạ?
Thứ hai: Nếu như một người trong kiếp này thấu hiểu về lý, nhưng chưa thực sự vô được cái thực thì sau khi thân hoại mạng chung, việc thông lý đó có thể được duy trì ở kiếp sau không hay sẽ phải làm lại từ đầu? Và khi con đã nhận ra con đường sáng, có cách nào để những kiếp sau con sẽ không bị lạc đường nữa không ạ?
1) Trong thiền vipassanà lý tức sự, nghĩa là lý và sự không tách rời nhau như những loại thiền có phương pháp. Thiền phương pháp là thiền áp dụng một lý thuyết vào thực hành để đạt được một kết quả mong đợi. Trong thiền vipassanà lý sự đồng thời bởi vì lý đây không có nghĩa là lý thuyết về một phương pháp, mà chính là thấy biết sựgọi là lý, vì vậy không có lý thuyết nào để áp dụng cả. Ví dụ khi cái cái ta ảo tưởng không còn lăng xăng tạo tác thì sáng suốt, định tĩnh, trong lành hay thận trọng, chú tâm, quan sát tự ứng một cách tự nhiên, nên ngay đó lý cũng chính là sự. Như vậy, trong thiền vipassanà chỉ có sự lý đồng thời tùy dụng mà ứng chứ không có áp dụng lý thuyết vào thực hành như các phương pháp thiền khác. Thực ra lý thuyết chỉ mới ở mức độ thức tri, chưa phải là lý thấy từ tuệ tri, cho nên áp dụng lý thuyết vào thực hành chưa phải là sự mà chỉ là múa may như con rối bị điều khiển bởi tư tưởng của lý trí. Con buông không được vì con chỉ mới thông lý ở mức độ lý thuyết, do đó tính áp dụng vẫn còn, chưa phải là ứng lý trong sự. Đừng nghĩ gì cả, cứ thường tự lặng lẽ biết mình thì sự lý sẽ dung thông.
2) Con yên tâm, nếu lý và sự đã dung thông thì con sẽ chẳng bao giờ quên, nhưng theo nguyên tắc thì khi tái sinh trong kiếp khác con phải bắt đầu lại. Không phải bắt đầu lại thì tốt hơn sao? Nhưng nếu lý của con chỉ là lý thuyết thì hầu như quên gần hết, giống như một người Anh tái sinh làm người Việt thì không còn nói tiếng Anh được nữa, người ấy phải bất đầu học tiếng Anh lại, có điều sẽ học nhanh hơn mà thôi.