Kính thưa thầy. Con có quen một cô kia, thường xuyên bị chồng đánh mắng. Cô rất hiền, người thân và ngay cả con khuyên cô nên ly dị vì không tốt cho các con cô khi phải chứng kiến những cảnh này. Cô bảo chấp nhận trả cho hết nghiệp. Cô đó nghĩ như vậy có đúng không thầy vì con thấy nhiều người thôi chồng thì tự nhiên đời sống được ổn định hơn, con cái cũng được nhờ và người chồng vũ phu không có cơ hội làm ác nữa. Con cảm ơn thầy.
Đây là câu hỏi không có câu trả lời nhất định, vì đúng hay sai chỉ cách nhau trong gang tấc, tùy từng trường hợp khác nhau. Đúng ở khía cạnh này sai ở khía cạnh khác, được mặt này mất mặt kia… không biết đâu mà lường được. Một pháp phát sinh do vô số nhân duyên tập hợp mà thành. Nó không đơn thuần như một bài toán số học có một đáp số nhất định. Bài toán cuộc đời không cần đáp số vì nó là bài học bất tận biến hóa khôn lường giúp chúng ta thấy ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống hơn là để đạt được điều gì. Thực ra, giá trị cuộc sống không phải là đạt được điều mình muốn, vì thoát được khổ này đạt được lạc kia, thì rồi trước sau gì cũng phát hiện lạc kia chỉ là một loại khổ khác mà thôi. Cứ vậy con người bôn ba tìm kiếm cái mình thích hơn nhưng rồi khi đã đạt được thì cũng chẳng có gì khác cả.
Lô sơn yên tỏa Triết giang triều
Vị đáo sinh bình hận bất tiêu
Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự
Lô sơn yên tỏa Triết giang triều
(Tô Đông Pha)
Mù tỏa Lô Sơn sóng Triết Giang
Khi chưa đến đó hận muôn vàn
Đến rồi về lại không gì lạ
Mù toả Lô Sơn sóng Triết Giang.
(Thiền sư Mật Thể dịch)
Một người thợ đục đá, làm việc cực nhọc đổ mồ hôi, thấy một ông vua đi qua có người hầu kẻ hạ sung sướng, ông ta ước gì được làm vua, và ông được như ý. Ông vua hân hoan được đoàn tùy tùng phục vụ rất hoàn hảo, nhưng giữa đường gặp trời nắng to cả đoàn vua tôi đều bị nóng bức hành hạ. Ông vua vừa nghĩ là nếu được làm mặt trời thì uy quyền hơn, lập tức ông biến thành mặt trời. Ông chiếu ánh nắng khắp nơi để tỏ uy quyền của mình. Nhưng chiếu nhiều quá nước bốc hơi thành mây che phủ cả bầu trời, ông không sao chiếu được. Thấy mây oai hơn nên lại ước thành mây, và khi được làm mây ông che phủ cả bầu trời không cho mặt trời chiếu sáng. Rồi đến mùa giông bão mây bị xua đi tan tác. Bây giờ làm gió mới chẳng thua ai, nghĩ vậy mây biến thành gió. Gió hả hê nổi trận cuồng phong thổi cho mọi thứ tiêu điều, xơ xác, nhưng nhìn lại thì núi đá vẫn đừng yên chẳng hề hấn gì. Lại ước và được thành núi đá. Đang đứng ngẫng cao đầu bệ vệ oai phong, núi chợt nghe tiếng đục đẽo, nhìn xuống thì thấy anh thợ đục đá đang đục mình ra từng mảng, vậy là anh ta ước thành người đục đá, và chợt thấy mình vẫn như người thợ đục đá thuở nào. Không biết anh ta có giác ngộ không hay vẫn tiếp tục ước mong được như mình muốn?
Vậy vấn đề không phải là có nên ước hay không nên ước thay đổi cuộc đời, mà là có học được gì từ những tình huống đó trong cuộc đời hay không.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Bạch thầy, con biết định luật nhân quả chi phối cả vũ trụ và nhân sinh. Làm phước thì được phước. Những người làm ăn thành công ở đời thì thế gian cho là họ có số hên, trong Đạo thì giải thích đó là do phước hay quả của quá khứ, người ấy đã làm các việc thiện như bố thí, giúp đỡ người nghèo khó… Con rất muốn thực hiện hạnh bố thí, nhưng nếu không có điều kiện thì làm sao tích lũy phước cho đời sau? Mong thầy từ bi chỉ dạy. Con cám ơn thầy.
Giàu không có nghĩa là nhiều tiền của mà là giàu lòng vị tha sẵn sàng chia sẻ cho người khác tùy theo sức mình. Bố thí cúng dường cũng không tính bằng số lượng tiền của cho ra mà là thái độ cho ra. Ở Thái Lan người ta thử điều tra thì thấy đa phần những người nghèo thường bố thí cúng dường nhiều hơn so với người giàu. Một nhóm sinh viên Việt Nam tại Mỹ, tổ chức thành một hội chuyên cấp học bổng cho học sinh nghèo ờ Việt Nam, không phải vì họ giàu mà chính họ cũng phải làm thuê để kiếm tiền đi học.
Muốn giúp đỡ người nghèo khổ là tốt, nhưng cũng phải tùy duyên, tùy khả năng. Không nên nghĩ những điều quá sức mình, vì nghĩ như vậy chỉ làm mình tự ti hoặc phát sinh tham vọng không thực tế. Nên thể hiện lòng vị tha trong khả năng mình có thể. Nếu không có khả năng bố thí thì phục vụ cũng là một hính thức bố thí vị tha.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa sư, trong thời gian con hành pháp buông xả con hiểu Tập đế là bị bản ngã thao túng, Đạo đế là pháp hành xả bản ngã, Diệt đế là thấy các pháp như nó đang là. Con xin sư chỉ dạy thêm cho con. Con xin cám ơn sư.
Đúng vậy, khởi đầu như thế là rất tốt, nhưng về sự thì tốt nhất đừng gọi pháp là gì cả, chỉ rỗng lặng trong sáng mà thấy biết pháp, không xen vào ý niệm nào thì mới thấy thực tại như nó đang là. Khi xen ý niệm, dù là ý niệm Tập đế, Đạo đế hoặc Diệt đế, vào thì đã bị tưởng che lấp rồi. Về lý, con nói về Tập đế và Đạo đế thì đúng, nhưng về Diệt đế thì có hai cấp độ thấy pháp như nó đang là: Khi pháp đang là là tham. sân, si… thì thực tánh của pháp đang là đó được gọi là thực tánh pháp (sabhàva dhamma), thực tánh pháp này chưa gọi là Niết-bàn. Khi pháp đang là là tịch tịnh trong sáng, không có tham sân si được gọi là chân nghĩa pháp (paramattha dhamma), pháp chân đế này mới gọi là Niết-bàn. Bản ngã cũng có hai mức độ: Khi nói buông bản ngã là nói bản ngã bị loại ra khỏi khu vực ý thức bởi chánh niệm tỉnh giác, nhưng bản ngã ngủ ngầm trong vô thức thì vẫn còn. Vì vậy khi đó nếu là Diệt đế hay Niết-bàn thì gọi là thời Niêt-bàn (Tadanga Nibbàna). Khi cả trong ý thức lẫn vô thức đều không còn bản ngã thì mới là Niêt-bàn trọn vẹn (Parinibbàna).
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Xin quý ban Biên tập và Chư Tăng Ni hoan hỉ cho con được biết Lễ dâng y là gì? Tại sao và diễn ra vào thời gian nào ạ?
Nam-mô A-di-đà Phật.
Kính thưa sư. Con là người đang bị chết chìm trên con đường tu suốt gần 8 năm. Nhưng nhân duyên đến nên con được sư chỉ dạy trong bài pháp Tứ Diệu Đế tại Melbourne Australia. Từ đó, gần 2 năm nay con luôn hành pháp xả và trong khi xả, con nhận biết với sự thận trọng, chú tâm, quan sát một cách tự nhiên, không bị ép buộc dưới sự chỉ đạo của bản ngã. Thưa sư, con hành như vậy có đúng không?
Thỉnh thoảng con nhận ra rằng khi nào bị stress là do bản ngã thao túng, lúc đó con quan sát sự căng thẳng bằng pháp xả thì stress dần dần tan biến và con thấy được nguyên nhân từ đâu. Con nhận ra sự sanh diệt, vô thường, vô ngã nên con hoàn toàn không coi nó như kẻ thù cần phải đẩy lui như trước đây. Con còn phát hiện ra con thỉnh thoảng đang bị đắm trong xả do bản ngã là con xả bản ngã trong sự quan sát tự nhiên bình đẳng giữa dục ái, hữu ái và phi hữu ái, đến từ nguyên nhân gì, thì con thấy được thực tại. Con kính xin sư chỉ dạy thêm cho con. Con hành như vậy có đúng không ạ?
Xem câu trả lời
Tuyệt lắm, con chỉ nghe bài giảng Tứ Diệu Đế một lần mà đã hiểu và hành rất chính xác. Sadhu lành thay! Đây gọi là thấy được lý trong sự nên sự và lý được thể hiện một cách dung thông. Nhiều người sau khi nghe giảng, do hiểu sai nên một là họ cho rằng đó chỉ là lý thuyết không thể thực hành được, hai là họ tưởng đó là một phương pháp đem ra áp dụng để cầu mong đạt được điều họ muốn đạt. Pháp này chỉ giúp người hành phát hiện ra đâu là cái ta ảo tưởng, đâu là thực tại tự tánh. Thấy ra được hai điều này chính là “nội tâm thanh tịnh và thấy rõ các pháp” mà đức Phật dạy là hai thắng đế (hai chân lý thù thắng) còn được gọi là minh. Cứ tiếp tục theo hướng tu tập như vậy con sẽ khám phá Tứ Diệu Đế ngay trong sinh hoạt đời sống hàng ngày. Xin chúc mừng!
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy! Con đã có duyên đọc được những trang trả lời thắc mắc của các vị đồng tu khắp năm châu gởi về nhờ thầy chỉ dạy. Đây là những bài học ngàn vàng mua không nổi. Nhờ đâu mà thầy có thể thấu triệt Phật pháp một cách rốt ráo như vậy? Trong những bộ Kinh đại thừa, ví dụ như Kim Cang kinh, nếu con đọc hiểu và ứng dụng vào hoàn cảnh sống hiện tại thì như vậy có phải là con đang tu không? Xin thầy từ bi chỉ dạy thêm cho con hiểu một cách cụ thể là làm sao để buông cái bản ngã đang lăng xăng tạo tác? Đạt vô ngã tức đạt Niết-bàn phải không thưa thầy? Nói như thế có phải là con đang tham không? Con mong tin thầy.
Bản chất của cái ngã lăng xăng là luôn tìm cách bám trụ. Cái gì nó ưa thích thì liền tham đắm, cái gì nó ghét bỏ thì cố loại trừ. Về tri thức cũng vậy nó bám vào tư kiến của mình rồi hình thành kết luận và mắc kẹt trong đó mà thành tà kiến. Do đó, trong thiền Tứ Niệm Xứ đức Phật cảnh báo: “Sống không nương tựa, không chấp trước điều gì ở đời” và gần 700 năm sau Kinh Kim Cang cũng dạy: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”. Khoảng 400 năm sau nữa Ngài Huệ Năng khi nghe Ngài Hoàng Nhẫn đọc câu này liền ngộ.
Buông cái ta lăng xăng tạo tác cũng đồng nghĩa với “Không nương tựa, không chấp trước điều gì ở đời”. Nếu thấy cái ta chỉ là ảo tưởng liền không bám trụ vào nó thì gọi là buông, lúc đó không còn cái ta ảo tưởng che lấp nên thực tánh liền hiển lộ trong tánh thấy, nên Kinh Viên Giác gọi là “Tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác”. Đó chính là ý nghĩa đích thực của Thập Độ Ba-la-mật (Pàramì). Sống được như vậy thì chữ tu không còn là nỗ lực của bản ngã nữa, nên Phật gọi đó là “sống thuận Pháp” (Dhammànudhamma patipanno viharati).
Để sống được vô ngã thuận pháp chỉ cần tại đây và bây giờ thường tinh tấn chánh niệm tỉnh giác hay thận trọng chú tâm quan sát ngay nơi mỗi động tịnh của thực tại thân tâm thì bản ngã vô minh ái dục không còn cơ hội xen vào bám níu và lăng xăng tạo tác ra Tập đế. Không Tập đế thì Khổ đế cũng không còn. Không còn Tập đế và Khổ đế thì ngay đó chính là Đạo đế và Diệt đế (Niết-bàn). Chúng ta nên nói Niết-bàn là vô ngã hoặc nói chấm dứt hoàn toàn bản ngã tham sân si là Niết-bàn thì đúng hơn.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, con đang hướng dẫn các Phật tử tu niệm Phật. Phần lớn là họ tu theo pháp trì danh niệm Phật, con cũng nương theo đó mà dạy họ trì danh niệm Phật với tâm sáng suốt, định tĩnh, trong lành. Như vậy thầy thấy được không, hay còn có gì bất ổn, xin thầy chỉ dạy cho con.
Xem câu trả lời
Thực ra, niệm Phật là một trong những cách giúp cho tâm được nhất niệm thanh tịnh, nên đó là một pháp môn rất tốt. Nếu loại những hình thức rườm rà mang tính tín ngưỡng dân gian ra thì pháp môn này rất hiệu quả. Khi niệm Phật mà thấy tâm sáng suốt, định tĩnh, trong lành thì tâm đã được nhất niệm thanh tịnh. Đến lúc đó nên hướng dẫn Phật tử niệm Phật lơi bớt để lắng nghe tâm sáng suốt, định tĩnh, trong lành đó. Khi tâm thất niệm hay vọng động thì niệm cho thật miên mật để tâm trở lại tự tánh sáng suốt, định tĩnh, trong lành. Cứ vậy cho đến khi không cần niệm nữa mà tâm vẫn sáng suốt, định tĩnh, trong lành là tâm đã chứng được vô niệm: Đó chính là chánh niệm tỉnh giác trong thiền Vipassanà vậy.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy xin thầy giải thích câu kinh: “Tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác”. Điều này có giống cách Thầy dậy buông bỏ cái ta tạo tác để tánh biết trong sáng vận hành không?
Kính Thầy!
Đúng, chữ ly có nghĩa là buông. Thực ra cũng cần lưu ý: buông hay ly nghĩa là không làm gì cả (không hữu vi, không tạo tác), chứ không phải là cố gắng buông cái gì đó. Cái ta vốn không thật có, vì chấp mà thành có nên khi biết cái ta chỉ là ảo tưởng thì nó tự biến mất, khi biết không còn cái ta ảo tưởng tức là giác.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy người hành thiền minh sát trông mặt cứ ngơ ngơ là đang hành đúng hay sai?
Xem câu trả lời
Chắc chắn là sai rồi, ngơ ngơ làm sao mà chánh niệm tỉnh giác được? Người ngơ ngơ là do đang bị đắm chìm hay dính mắc vào một đối tượng nào đó trong quá khứ, vị lai hoặc hiện tại, nên thiếu tỉnh thức ngay nơi thực tại đang là.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy cho con xin phép hỏi, con có thể thực hành thiền tuệ được chưa ạ? Con cảm ơn thầy!
Xem câu trả lời
Con đã nghe thầy giảng ở Hà Nội rồi, sao bây giờ còn hỏi câu này? Nhìn lại là thấy thôi thì lúc nào mà không hành được!