Thưa thầy, con xin được hỏi, trong một vài chia sẻ hỏi đáp gần đây con có thấy thầy có nói tới một vài chỗ như đi sâu vào vấn đề tiềm thức hay vô thức. Theo con hiểu tiềm thức hay vô thức là những thứ nằm bên dưới thúc đẩy dẫn dắt chúng ta hành xử theo điều đó, nó có thể là các cảm nhận, nhận thức, hiểu biết, muốn hay không muốn một điều gì đó và thường chúng ta biết rất ít về hoạt động của nó.
Và tiềm thức hay vô thức chỉ có thể thấy được phần nào thông qua việc quan sát học hỏi từ các cảm xúc tư tưởng hay qua những ứng xử, hành động của chúng ta trong cuộc sống.
Con hiểu về tiềm thức và vô thức là như vậy. Con cũng đọc được một ít sách có nói về điều này nhưng chưa thấy giải đáp nào cặn kẽ. Con mong được thầy chỉ bảo về điều này. Con xin cảm ơn thầy.
Theo Vi Diệu Pháp, tâm thường ở dưới 4 tình trạng khác nhau: 1) Tâm dưới dạng tri giác của 5 giác quan, tương đương Tiền ngũ thức trong Luận Duy Thức. 2) Tâm dưới dạng ý giới tương đương với Mạt-na thức trong Luận Duy Thức. 3) Tâm duới dạng ý thức, cùng tên gọi trong Luận Duy Thức. 4) Tâm dưới dạng tiềm thức gọi là bhavanga (hữu phần) tương đương với A-lại-da thức trong Luận Duy Thức.
Trong 4 dạng tâm thức nói trên chỉ có ý thức là không phải vô thức, ba dạng còn lại được xem như tiềm thức hoặc vô thức nếu không có ý thức hỗ trợ. Năm thức giác quan tuy gọi là thức nhưng là cái biết vô nhân gần như không biết vì chưa có ý thức, thuộc tri giác máy móc được gọi là trực giác giác quan. Các tâm ý giới cũng vậy, chỉ nhận định một cách tự động, và máy móc (vô nhân), hai dạng tâm thức vừa rồi có thể xem là tiền ý thức chứ chưa phải là ý thức. Hữu phần mới thật sự là vô thức hiểu theo nghĩa không có ý thức, hay không ý thức được.
Vô thức có hai nghĩa: 1) Không cần ý thức, bao gồm những hoạt động tự vận hành một cách máy móc dù không ý thức vẫn tiến hành được. 2) Không có ý thức, như khi làm một việc gì mà không tự ý thức được. Tóm lại, có những hoạt động cần ý thức thì phải ý thức rõ ràng, nhưng có những hoạt động không cần ý thức thì nên để pháp tự vận hành không nên xen ý thức vào quá nhiều, nhất là những hoạt động ý thức chủ quan.
Chánh niệm tỉnh giác chính là cách tốt nhất để hữu thức hóa vô thức, mà môn Phân Tâm Học của Sigmund Freud muốn nói đến. Chánh Niệm tỉnh giác giúp chúng ta phát hiện ra những hoạt động thúc đẩy từ vô thức mà Phật giáo gọi là những phiền não ngủ ngầm (Anusaya kilesa), và Phân Tâm học gọi là những khuynh hướng xung động (impulsive tendency). Khi chánh niệm tỉnh giác đã thấy ra toàn bộ khuynh hướng xung động này thì toàn bộ khối vô thức trong Bhavanga đã bị hữu thức hóa và những hoạt động vô thức hữu ích và tự nhiên sẽ tồn tại, còn những hoạt động vô thức dưới dạng phiền não ngủ ngầm đều bị chuyển hóa hay vô hiệu hóa.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, Con có băn khoăn về câu hỏi của một bạn trong mục này về việc nhẹ vía và buổi đêm đi ngủ thường có cảm giác như đang nói chuyện với ai và ngủ xong thấy mệt mỏi.
Thưa sư, theo như con biết thì hình như ở một vài trường phái tâm linh khác cũng có khi chủ động làm việc này như “xuất vía đi học hỏi trao đổi từ nơi này nơi kia hoặc làm một số việc này khác”. Như vậy thì ở một góc độ khác việc này cũng không phải là vấn đề gì lắm, nếu mình thực sự có thể hiểu và chủ động trong việc này.
Lại nữa, thầy có nói nên niệm ARAHAM SAMMÀ SAMBUDDHO là hai trong 9 ân đức của đức Phật, là đức tính hoàn toàn thanh tịnh trong sáng của chư Phật. Con cũng không hiểu về niệm Phật lắm nhưng con nghĩ chắc niệm Phật hay niệm một điều gì khác cũng mang lại định tâm thôi.
Và có đoạn này con cũng hơi thắc mắc: “Nếu có dịp đến chùa thầy tặng con một tượng Phật để đeo sẽ không còn hiện tượng đó nữa”, con cũng băn khoăn không biết tượng Phật có tác dụng nhiều không ạ vì con thấy bên Phật giáo Nguyên thủy ít nói tới vấn đề tha lực.
Những điều trên theo con hiểu là vậy, không biết con có bị thiếu đức tin vào những điều thiêng liêng không?
Con mong thầy chỉ bảo những sai thiếu cho con. Con xin cảm ơn thầy.
1) Trạng thái “nhẹ vía” trong giấc ngủ đó có thể do bị xáo trộn tâm lý đưa đến thần kinh căng thẳng hay suy nhược, cũng có thể do “điển” bên ngoài quấy nhiễu. Trường hợp thật sự thông hiểu và chủ động được thì không sao, nhưng nếu thích xuất vía để thỏa mãn cái ta thì cũng có ngày gặp “ma”, nếu không thì dần dần cũng rơi vào tình trạng … suy nhược!
2) Nếu tâm trí luôn sáng suốt, định tĩnh, trong lành thì tất nhiên là không cần niệm Phật hay niệm bất cứ điều gì khác. Đeo tượng Phật cũng vậy. Đó chỉ là tùy bệnh mà cho thuốc, không bệnh thì cũng không cần dùng thuốc. Tha lực hay tự lực đều có chỗ sai chỗ đúng, tùy thuộc vào mức độ nhận thức của mỗi người. Nếu xem tự lực là bản ngã thì chẳng thà tin tha lực mà vô ngã còn hơn. Ngược lại, hoàn toàn nô lệ vào tha lực thì biết khi nào mới tự tri tự giác. Một người sống vô ngã thuận pháp thì tha lực và tự lực không hai, vì tha lực hay tự lực cũng đều là pháp cả.
Nếu hiểu tha lực là lực bên ngoài thì mỗi pháp tồn tại đều có tự và tha. Mỗi ngày chúng ta sống đều nhờ vào vô số nguồn lực bên ngoài làm sao mà hoàn toàn tự lực được. Sống là sự tương giao vận hành giữa trong và ngoài, do đó phải biết rõ sự tương giao đó hơn là phân biệt trong với ngoài, tự với tha. Nếu hiểu tha lực là lực siêu nhiên, như Ân Đức của Tam Bảo, oai lực của Chư Thiên v.v. thì vẫn có. Do đó, với những người chưa đủ chánh niệm tỉnh giác, thường thiên về đức tin, thì một số pháp môn như niệm Phật hay đeo tượng Phật là pháp hỗ trợ để tâm họ dễ an ổn hơn. Đó là mượn tha lực để phục hồi tự lực. Trong rất nhiều trường hợp đức Phật không dùng tới tự lực mà tha lực làm giúp Ngài. Ví dụ như khi đức Phật bị xúc phạm thì vi Hộ Pháp hiện ra làm cho người kia sợ hãi không dám xúc phạm Ngài nữa.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Sư, con là Phật tử được duyên may học Pháp và đã có thể áp dụng được một ít vào cuộc sống, khi bình thường thì con hành sự mọi việc rất điềm tĩnh, nhưng đôi lúc không kiềm chế được bản thân, nhất là khi dục vọng trổi lên! Nhiều lúc con thấy mình trong lúc đó như loài quỷ! Con xin sám hối với Sư, mong Sư cho con lời khuyên để đoạn trừ bớt dục vọng và kiềm chế được bản ngã! Con ước gì mình được như thầy Ananda, được đức Phật thấy biết kịp thời ngăn lại và cho 1 bài Pháp để không bị nhấn chìm vào ái dục! Xin cảm ơn Sư!
Nhục dục là từ ám chỉ sự ham muốn trong sắc, thanh, hương, vị, xúc (ngũ dục) nói chung, nhưng người ta thường hiểu ngầm là “dâm dục”. Ngũ dục là bản năng tự nhiên của loài người nói riêng và cõi dục giới nói chung, tùy theo mức độ của mỗi cõi, từ Địa Ngục cho tới cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên. Thậm chí đến các bậc Thánh Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm vẫn chưa hết được ngũ dục.
Muốn xuất ly một pháp không phải chỉ tìm cách đối trị nó mà phải thực sự thông suốt được nó. Giống như bệnh, người ta chỉ dùng thuốc để loại trừ bệnh trạng, nhưng chính yếu là phải loại trừ được nguyên nhân sinh bệnh. Nhưng muốn loại trừ nguyên nhân sinh bệnh nói chung thì khởi đầu phải thông suốt được nguyên nhân, hậu quả, và toàn bộ tính chất của mỗi căn bệnh nói riêng. Qua chiêm nghiệm khám phá từng căn bệnh người đó thấy rõ nguyên nhân của toàn bộ bệnh tật và đồng thời cũng biết thế nào là không bệnh. Bởi vì một người đã biết rõ thế nào là không bệnh thì người đó có thể chấm dứt toàn bộ bệnh chứ không cần phải đối trị từng căn bệnh một nữa.
Nhục dục phát sinh từ nhiều nguồn. 1) Nguồn kích thích từ bên ngoài (do hoàn cảnh, sự thân cận). 2) Nguồn kích động từ sinh lý (do tác động của các tuyến nội tiết, đơn giản như đói thì thèm ăn v.v.). 3) Nguồn kích hoạt của tưởng (phần lớn dục do tưởng sinh). 4) Do cả ba nguồn kích thích trên. Chủ yếu ở đây nếu một người có tâm rỗng lặng trong sáng nghĩa là thường chánh niệm tỉnh giác, biết rõ hoạt động của thân, của cảm giác, cảm xúc, tư tưởng v.v.. thì có thể kiểm soát được sự sinh diệt của dục. Điều quan trọng không phải là tìm cách diệt nó mà là học ra từ đó bản chất vô thường, khổ, vô ngã của nó thì mới có thể thoát khỏi nó. Nói chơi mà cũng rất thực là “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ”, chưa thấy khổ đến tận cùng chưa thoát được dục đâu! Đó là vai trò tuyệt vời của cái khổ giúp con người học ra bài học giác ngộ giải thoát.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Sư, từ hồi nhỏ, mỗi lần trong nhà có họp gia đình hay trong sở có tiệc tùng là con hay cảm thấy trong lòng trống vắng, chán ngán sau đó mặc dù không ai làm con phiền lòng chi cả. Những lúc như vậy con chỉ muốn khoác lên người chiếc áo tu, ở một nơi thật vắng vẻ. Thưa Sư, có phải đó cũng là tâm sân không ạ và con phải làm sao để trị nó? Con kính tri ân Sư.
Có thể kiếp trước con là một ẩn sĩ ưa thích lối sống độc cư thiền tịnh nên bây giờ cảm thấy mình lạc lõng giữa những cảnh tụ hội ồn ào đông đúc, hoặc khi con đã thấy ra cảnh tiệc tùng vui chơi náo nhiệt chẳng có lợi ích gì cả nên con chán ngán v.v… Nếu là như thế thì không hẳn là sân. Bồ-tát Sĩ-đạt-ta trước khi đi xuất gia, hay công tử Yassa chán cảnh ăn chơi của mình, nửa đêm bỏ ra ngoài tìm bầu trời thoáng mát cũng có tâm trạng như vây. Bản thân thầy trước khi xuất gia cũng có tâm trạng không khác gì con. Tại sao con phải xác đinh đó là tâm sân làm gì, chỉ cần con nhìn lại để thấy rõ tâm trạng đó là được rồi. Đừng vội kết luận nó là tốt hay xấu, thiện hay ác. Cũng đừng vội vàng đối trị nó. Hẳn là tâm trạng đó muốn cho con thấy ra điều gì đó đang ẩn sâu trong lòng con. Hãy lắng nghe nó để khám phá ra thế giới nội tâm của mình, như thế chẳng phải thú vị hơn sao?
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Namo Buddhaya!
Kính bạch thầy, từ ngày con tham dự khóa giảng 7 ngày của thầy ở Hà Nội (vào trung tuần tháng 4 năm 2010) đến nay con đã thôi không tụng Kinh nữa vì lời dạy trong Kinh đối với con rất trừu tượng khó thực hành trong cuộc sống. Nay con chỉ niệm Phật, sám hối và làm theo như lời thầy đã chỉ dạy là thận trọng, chú tâm, quan sát trong mọi công việc hàng ngày. Nhưng kết quả đến với con rất chậm, thất niệm vẫn rất nhiều. Con kính xin thầy hoan hỉ dạy rõ cho con cách sám hối như: sám hối cái gì? Sám hối thế nào? Hoặc tìm hiểu bài sám hối ở đâu? Có phải sám hối là thân, khẩu, ý sám hối không? Lạy Phật có phải là sám hối không? Con vô cùng tri ân công đức bố thí Pháp của thầy. Con kính mong thầy luôn an lạc ạ!
1) Khi đã biết sống khám phá sự thật thì con cứ nhiệt tình học ra bài học của mình, còn chậm hay nhanh là chuyện của pháp. không nên nóng vội. Sống khám phá pháp không phải để đạt được tình trạng lý tưởng như đã định trước, mà là không mê mờ trong pháp để học ra bài học mới mẻ từng giây từng phút. Pháp luôn vô ngã nên chỉ cần thấy pháp thôi chứ đâu có cái tôi để mong đạt được như ý mình. Hãy cảm nhận được sự hứng thú trong từng giây phút khám phá cái thật hơn là mong cầu đạt được nó. Đạt được là đã rơi vào cái ngã rồi làm sao thấy pháp được? Thất niệm là tâm bôn ba tìm kiếm bên ngoài, không còn trọn vẹn với thức tại thân tâm nữa. Khi nhận ra tình trạng thất niệm, tạp niệm hay vọng niệm thì ngay đó đã là chánh niệm rồi, chứ không cần dùng một niệm nào đó để cố gắng nắm bắt thực tại. Thường người ta hướng tâm truy tìm và nắm bắt pháp (bằng tầm, tứ) như một mục đích để đạt đến, chứ không thực sự trở về thực tại để thấy nó như nó đang là (bằng chánh niệm – tỉnh giác), nên tâm vẫn cứ thường dao động bất an. Chánh niệm thật sự thì vô tâm, vô niệm, vô ngã nên mới gọi là không, vô tướng, vô tác, vô nguyện, như Phật đã dạy: “Quá khứ không truy tìm, tương lai không ước vọng, chỉ có pháp hiện tại, tuệ quán chính là đây”. Hãy nhớ: Thất niệm như thật biết thất niệm đó chính là chánh niệm tỉnh giác.
2) Tạ ơn và sám hối là việc nên tự nhắc nhở mình hàng ngày. Chúng ta được sinh làm người để học bài học giác ngộ là đã mang ơn Tam Bảo, Trời Đất, Thầy Tổ, Cha Mẹ, Chư Thiên và vô số chúng sanh nên trước tiên cần phải chân thành biết ơn và tạ ơn tất cả. Ngay cả những pháp đối nghịch cũng đã giúp chúng ta học được nhiều bài học quý giá như lòng nhẫn nại, từ bi v.v. Đồng thời khi còn cái ta vô minh ái dục chúng ta đã vì lòng ích kỷ cá nhân mà đối nghịch với Tam Bảo, Trời Đất, chư Thánh Hiền, Bồ-tát và Cha Mẹ, Thầy Tổ … cũng như gây khổ đau tổn hại đến vô số chúng sanh. Do đó, tạ ơn – sám hối là pháp mà bất cứ ai bắt đầu ý thức được sự quan hệ mật thiết trong cuộc sống trùng trùng duyên khởi đều tự thấy ra đó là trách nhiệm của mình.
Cũng không cần phải có một phương pháp tạ ơn sám hối nào nhất định, mà chủ yếu là ở tấm lòng. Cách thể hiện thì tùy người tùy hoàn cảnh. Nên tự mình thấy ra hơn là làm theo một bài bản sẵn có. Khi chúng ta đọc mãi một lời tạ ơn sám hối soạn sẵn thì dễ rơi vào máy móc, quán tính và lâu ngày sẽ không còn sinh khí để cảm ứng xúc động nữa. Và cụ thể hơn nữa là biểu hiện bằng hành động thiết thực đối với Tam Bảo, Cha Mẹ, Thầy Tổ, những người, vật và hoàn cảnh xung quanh với tâm tôn kính, thương yêu, thông cảm, bao dung, tha thứ v.v… Đó mới thật sự là tạ ơn sám hối.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa sư. Con là người hỏi câu hỏi về nghiệp và luân hồi trong ngày 14/12 vừa rồi mà vừa được sư chỉ bảo. Con rất vui khi được nhận sự chỉ bảo của sư trong câu hỏi vừa rồi. Nhưng con muốn hỏi thêm sư về điều này, như trong trả lời của sư về vấn đề này lần trước nếu con nhớ không lầm thì sư có nói đến trong trường hợp người mất lưu luyến người thân hay còn bị mắc kẹt vào một lý do gì đấy mà ở lại quá lâu thì càng ngày càng khó siêu thoát hay tái sinh sang các cõi lành khác. Vậy theo con hiểu càng ở lâu năng lực của người này càng giảm và yếu đi đúng không ạ? Theo con hiểu truyền thống dân gian thường cúng 49 ngày để trợ thêm năng lực cho người chết có thể siêu thoát về các cõi lành hơn. Có phải đây là ý nghĩa của tục cúng 49 ngày? Và còn tục cúng giỗ ba đời của con cháu thì cũng có ý nghĩa nào đấy gần gần tương tự?
Việc tái sinh của người chết về đâu phụ thuộc vào trạng thái tâm của người đó ngay trước lúc mất và phẩm chất tâm của người đó được thanh lọc qua cuộc sống đến đâu, nhiều ít phiền não hay ô nhiễm không?
Và về cơ bản khi còn ở trong luân hồi thì các giải pháp như vậy cũng chỉ là tạm thời thôi đúng không ạ?
Xin cám ơn sư và mong nhận được sự chỉ bảo của sư.
1) Người chết thường bị trói buộc vào chính nghiệp quá khứ và tâm tưởng cuối cùng của mình, do đó những người tâm bị dính mắc phải còn ở lại dưới hình thức Peta hay Asura như thầy đã nói. Bao lâu người chết còn tồn tại trong cảnh giới này thì ngày càng trở nên đau khổ hơn vì sống trong cảnh không như ý mà không làm gì được. Họ không đủ phước để tái sanh vào những cảnh giới tốt hơn, nên đang cần thân nhân làm phước hồi hướng cho họ. Nếu phước hồi hướng đủ để họ phá được tâm tưởng tiêu cực thì họ có thể thoát ra khỏi cái thân do tưởng sinh ấy, và được tái sinh cảnh giới tốt hơn. Nếu cúng thất, chung thất, trăm ngày hay cúng tiểu tường, đại tường v.v. với mâm cao cỗ đầy hoặc tụng kinh cầu siêu, trai đàn chẩn tế… mà không có tâm lực và phước lực để hồi hướng thì người chết cũng không hưởng được gì cả.
2) Tâm tục sinh (Patisandhi) tùy thuộc vào nghiệp quá khứ và tâm tưởng cuối cùng của tử tâm (Cuti) lúc lâm chung, gọi là cận tử nghiệp. Do đó, chỉ có thể trợ giúp đươc thân nhân trong khi đang hấp hối bằng cách tạo điều kiện cho cận tử nghiệp hướng thiện hoặc thanh tịnh là được. Và trong suốt thời gian trước khi chết cho đến sau khi chết thân nhân cần thành tâm làm phước để hồi hướng thì có thể trợ duyên cho người chết không bị mắc kẹt vào cõi Peta và Asura. Thân nhân hết lòng trợ duyên là tốt rồi chứ không làm sao thay phước hay cải tội cho người chết được
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy! Con đã trải qua tuổi trẻ vất vả, cơ cực vì hoàn cảnh gia đình bao nỗi éo le. Con cũng chứng kiến những vất vả cuộc sống của bao gia đình khác. Có những khi, trong nước mắt con đã thề với cuộc đời này rằng, con đã thấm thía nỗi khổ của cuộc đời, của gia đinh – nơi mà người ta vẫn cho là tổ ấm hạnh phúc nhất. Đó là bài học đắt giá mà tuổi thơ con, tuổi trẻ của con được trải nghiệm. Nhưng thưa thầy, vậy tại sao khi con đã học được như vậy, mà Pháp dường như vẫn muốn con lấy vợ để học tiếp về cuộc sống gia đình ạ? Con cảm ơn thầy.
Xem câu trả lời
Một bài học pháp được gọi là đã học xong khi thấy rõ nguyên nhân sinh, nguyên nhân diệt, thấy rõ vị ngọt, sự nguy hại của pháp đó mới có thể xuất ly. Nhưng hãy nhớ rằng xuất ly là không có vấn đề gì với pháp đó nữa chứ không phải là xa lìa pháp đó. Con chưa xuất ly được pháp nào đó, đơn giản chỉ vì tự thân chưa thực sự thấy hết gốc rễ ngọn ngành của nhân quả, duyên báo, chưa thấy hết vị chua cay mặn ngọt, chưa thật sự nhàm chán thì làm sao mà xuất ly được? Trải nghiệm là một việc mà học ra được bài học giác ngộ là một việc khác. Nếu con đã học ra được bài học giác ngộ trong việc lấy vợ thì dù lấy vợ hay không chẳng có vấn đề gì với con cả. Có những vị Thánh Tu-đà-hoàn vẫn có chồng có vợ, có con cháu đầy đàn mà có ai than thở gì đâu. Hãy xem lại có phải pháp muốn con lấy vợ hay tiềm ẩn trong vô thức con vẫn còn vương vấn gì đây?
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa sư cho con được hỏi, như một trả lời trước đây trong mục này, sư có nói đến trường hợp một người đã mất còn lưu luyến người thân chưa siêu thoát được thì nên làm những việc công đức rồi hồi hướng phước để giúp người này có thể siêu thoát được…
Con có đọc trong cuốn “chánh kiến và nghiệp” có đoạn ngài Ledi Sayadaw nói, ngay khi vừa chết đi là đã lập tức chuyển sang một cõi khác trong 6 cõi luân hồi. Vậy trong trường hợp chưa siêu thoát ở đây là đang ở cõi nào, con nghĩ chắc đang ở cõi ngạ quỷ có đúng không ạ?
Con thấy một số truyền thống Phật giáo khác có thực hành việc cầu siêu cho những người đã khuất. Việc này giúp cho những người trong cảnh ngạ quỷ và một số cảnh giới địa ngục được thoát khỏi cảnh khổ và tái sanh vào kiếp khác, con hiểu vậy có đúng không thưa sư?
Con thấy Phật giáo Nguyên thủy ít tổ chức những lễ cầu siêu như vậy mà thường tập trung vào nhiều việc khác mang tính chất tu tập hơn. Con hiểu vậy không biết có chỗ nào khiếm khuyết, mong được sư chỉ bảo.
1) Chưa siêu thoát có nghĩa cao nhất là chưa nhập Niêt-bàn. Nhưng siêu thoát ở đây chỉ có nghĩa là chưa được tái sanh lại cõi người hoặc các cõi Chư Thiên, và thường ám chỉ tái sanh trong cõi Peta (ngạ quỷ) hoặc Asura (A-tu-la) như con đã nói. Đó là những cảnh giới tái sanh như bao nhiêu cảnh giới khác, chứ không phải hiểu theo nghĩa bình dân là có một vong linh còn đang vất vưởng đâu đó để chờ cơ hội tái sanh.
2) Cầu siêu chỉ là một cách nói để ám chỉ việc trợ giúp cho người chết có đủ năng lực thoát ra khỏi cõi Peta, chứ không có nghĩa là cầu xin cho họ được siêu. Việc trợ lực này phải có đủ 3 điều kiện là tâm lực, phước lực để hồi hướng và thứ ba là sự hoan hỷ của người chết thì mới giúp họ được tái sanh vào cõi tốt. Vậy thực tế là làm phước và thành tâm hồi hướng phước cho họ chứ không phải chỉ cầu nguyện thôi mà được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Namo Buddhaya!
Đầu tiên con gửi lời vấn an đến thầy ạ! Kính thưa thầy cho con được hỏi: Sự nhẫn nhục đến mức độ không chịu đựng được nên có những lời nói và hành động không kiểm soát được thì đấy có phải bản ngã cố gắng dằn lòng để chịu đựng không? Đó có phải là nhẫn nhục không? Muốn có sự nhẫn nhục thật sự thì phải làm thế nào? Kính mong thầy chỉ giáo. Con vô cùng tri ân công đức bố thí Pháp của thầy ạ!
Con vào Thư Viện tìm cuốn Sống Trong Thực Tại, đọc Chương 6: Bình thản đón nhận, trong đó thầy giải thích rất rõ về đức tính Nhẫn nại. Con cũng đọc thêm Chương 9 đoạn nói về Nhẫn nại Ba-la-mật. Đúng là thường người ta chỉ cố gắng dằn lòng chịu đựng cho qua chuyện, nhưng lâu ngày bị dồn nén có thể đến một lúc tâm sân sẽ bùng lên dữ dội hơn. Nếu hàng ngày thường biết rõ thân tâm mình thì sự trầm tĩnh sáng suốt sẽ được phát huy, và bản ngã tham sân si bị đoạn giảm. Khi đã trầm tĩnh sáng suốt, không bị bản ngã chi phối thì dù gặp trở ngại gì cũng sẽ nhẫn nại được. Tâm từ hoặc bi thường theo sau nhẫn nại, nên người có tâm nhẫn nại sẽ có lòng từ ái với người hoặc cảnh nghịch, chứ không sân hận. Vì vậy thường niệm tâm từ cũng giúp cho nhẫn nại dễ dàng hơn.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy. 1) Ngày đầu nghe Thầy mở khóa giảng thiền, lòng con hớn hở tham dự với ước vọng kỳ nầy sẽ được ngồi thiền, nhập định rồi tương lai sẽ về cõi tốt đẹp, nhưng ngày đầu con đã hụt hẫng, tại sao mình muốn ngồi thiền mà Thầy lại giảng bài? Rồi 1 bài, 2 bài… đến nay đã 4 bài rồi. Nay con mới ngộ ra rằng Thầy đang chỉ đường cho chúng con bằng cách nhìn lại mình xem đã sáng suốt, định tĩnh, trong lành hay chưa? Đã tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác chưa? Có từ bi hỷ xả cứu giúp mọi người chưa? Khi làm được những điều như thế rồi, thân tâm an lạc lúc đó hãy đi tiếp. Con có tải về bài giảng của Thầy, đó là những bài rất quý giá theo ý con, nghe tới nghe lui để tìm cho mình một sự an lạc trong thấy biết đúng. Hành theo đúng lời Thầy dạy thì lúc đó sẽ không bị ngơ ngơ phải không Thầy. 2) Con từ đạo Cao Đài chuyển qua Tịnh Độ tông, ăn chay trường niệm PHẬT cầu vãng sanh, vài ngày đi chùa tụng kinh, bố thí (ít thôi), kinh sách nào cũng mua về tụng nhưng sau nầy con mới biết rằng tất cả cũng do người đời viết ra mà thôi. Đúng có, sai có. Vỡ mộng, vì sao? Vì khi buông ra con vẫn bị cái tham sân si đeo đuổi, cái bản ngã vẫn còn. Nay con có nhân duyên gặp Thầy, con chỉ niệm PHẬT và sám hối mà thôi, không cầu gì cả, đồng thời tích cực làm lành, cúng dường bố thí thật nhiều hơn nữa. Những lời con nói như trên không biết đúng hay sai kính xin Thầy chỉ dạy thêm. Chúc Thầy nhiều sức khỏe.
Chỉ mới qua bốn buổi giảng mà anh đã khai mở như vậy thì thầy rất hoan hỷ. Nếu nhiều người được như vậy thì đó là phần thưởng quý giá nhất cho thầy. Anh đã tiếp thu rất chính xác. Và việc đầu tiên anh làm được là biết trở về nhìn lại chính mình (Ehipassiko), thay vì ước mong hành thiền để đạt được một cảnh giới tốt lành ở tương lai (Hướng ngoại cầu huyền). Đó là một bước đầu rất vững vàng chính xác.
Tuy nhiên, khi trở về với chính mình anh cần lưu ý mấy điểm sau đây thì mới thật là đúng: 1) Khám phá để thấy rõ thực tại thân tâm quan trọng hơn là để được an lạc. 2) Thấy thực tại thân tâm (thân, thọ, tâm, pháp) một cách sáng suốt, định tĩnh, trong lành, và khi động dụng làm việc gì thì thận trọng, chú tâm, quan sát, thì đó chính là đang tinh tấn chánh niệm tỉnh giác trong thiền tuệ Vipassanà, hay liễu liễu thường tri trong thiền Kiến Tánh. Nếu anh làm được như vậy thì đó chính là thiền, chứ không phải chỉ là chuẩn bị cho thiền ở tương lai. Niệm Phật, sám hối, bố thí, nhẫn nhục, phục vụ tha nhân… là những pháp hỗ trợ cho pháp thiền tùy duyên thuận pháp vô ngã vị tha mà thầy đang hướng dẫn. Vì pháp thiền này lấy chính mình làm chỗ tu tập nên không cần lệ thuộc vào một phương pháp có điều kiện nào cả, nên những người quen thực hành thiền có phương pháp lại tưởng đó chỉ là lý thuyết chứ không phải thiền!