Thưa Sư, con trích một đoạn trong Sống Trong Thực Tại ở mục thư viện nhờ Sư giải thích thêm:
“Trong thiền Vipassanā, chánh niệm tỉnh giác là hai yếu tố cốt lõi, nhưng nếu thiếu tinh tấn thì vẫn không đủ lực để thể hiện giác niệm một cách đúng mức cần thiết cho sự quán chiếu trung thực.”
Con thắc mắc là đa phần các cố gắng và nỗ lực là tạo tác hữu vi của bản ngã. Vậy thì năng lượng của chánh tinh tấn này được lấy từ đâu? (Vì năng lượng của tà tinh tấn lấy từ bản ngã và ham muốn thành tựu hay loại bỏ cái gì đó của thực tại).
Con thấy vấn đề “tinh tấn” hay cố gắng này rất tinh tế. Xin Sư giải thêm cho con và các bạn đồng đạo được tỏ tường.
Thầy sẵn lòng trả lời những câu hỏi khi đã suy tư chiêm nghiệm hết sức mà vẫn không tự giải nghi được, lúc đó thầy chỉ gợi ý một chút thôi là thấy ngay. Thầy đã nói đừng học đạo để thỏa mãn lý trí. Một câu trả lời thật rành mạch cũng không giúp con giác ngộ được đâu, hãy tự mình khám phá thể nghiệm để thấy ra sự thật, không nên tìm lời giải nơi kinh điển hay bất kỳ vị thầy nào. Thầy nghĩ là con chưa đọc hết chương 5 nói về tinh tấn, hoặc con chỉ đọc phớt qua, rồi lại thắc mắc chính những điều mà thầy đã nói rõ trong đó, và trong các buổi giảng thầy cũng đã nói đi nói lại không biết bao nhiêu lần. Vậy có lẽ đã đến lúc tự con phải khám phá tinh tấn là gì mới được. Hãy tinh tấn lên đừng quá lười biếng giao khoán cho ngôn từ vay mượn từ một xác định của người khác như vậy. Kinh điền và thầy chỉ có nhiệm vụ gợi ý cho con tự thấy thôi.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy, con có vài thắc mắc, xin thầy vui lòng giải đáp cho con:
1. Con người lúc còn vô minh thì có bản ngã. Khi mạng chung, mất thân người, bản ngã vẫn còn hay không?
2. Các loại thực vật vẫn có cái biết theo bản năng mà không có tham sân si, vậy có phải cây cỏ luôn sống trong Niết-bàn không?
3. Những loài vật thông minh vẫn có tánh biết, vậy có thể nói loài vật cũng có Phật tánh hay không?
4. Con người theo lục đạo luân hồi mà tái sanh, phải chăng con người đánh mất Phật tánh của mình khi tái sanh vào các cõi thấp hơn?
Con xin cám ơn Thầy.
Trong khóa giảng lần 5 tại Bửu Long, ở ngày đầu tiên (Ngày 1A – Cái thực) thầy đã có nói rất rõ về những vấn đề này rồi, con vào mục Pháp Thoại để nghe nhé. Ở đây thầy chỉ trả lời vắn tắt thôi.
1) Khi sống có chấp ngã thì khái niệm ngã đã được ghi sâu trong tiềm thức Bhavanga hay Duy Thức gọi là A-lại-da thức, nên dù chết khái niệm bản ngã vẫn còn như hạt giống, và hạt giống đó sẽ có cơ hội tái hiện sau khi tái sinh.
2) Bài kệ sau đây sẽ thay thầy giải đáp câu hỏi của con:
Chư Pháp tùng bản lai
Thường tự tịch diệt tướng
Xuân đáo bách hoa khai
Hoàng Oanh đề liễu thượng
3) Triệu Châu trả lời là “VÔ” (Chừng nào con ngộ chữ VÔ ấy của Triệu Châu thì đó chính là câu trả lời, còn bây giờ thầy nói cũng vô ích thôi)
4) Nếu không có Phật tánh đương nhiên là … không mất, còn nếu đã có Phật tánh thì con nói mất cái gi?
Những câu hỏi này không có câu trả lời để thỏa mãn lý trí đâu. Hãy tự khám phá sự thật, sẽ thú vị hơn là chỉ dựa vào nhận thức của người khác.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy, con xin hỏi:
Chiêm nghiệm lại “bản vẽ” của mình từ hiện tại trở ngược về những gì đã xảy ra trong quá khứ, để nhìn ra bản ngã được tạo thành ra sao, để thấy rõ mình đã tham sân si ra sao…, từ đây sự hình thành của bản ngã được nhận rõ…, có phải việc làm nầy là chánh tư duy không?
Có cần làm điều nầy mới đánh bật được gốc của bản ngã và vô minh ái dục không? Chúc Thầy sức khỏe tốt.
Nhớ lại quá khứ là một chức năng tự nhiên xuất hiện khi cần đến. Nhưng không cần phải chủ tâm “trở ngược về những gì đã xảy ra trong quá khứ, để nhìn ra bản ngã được tạo thành ra sao”. Bởi vì không chừng ý đồ trở về này cũng phát xuất từ bản ngã. Chỉ cần nhận ra cái ta trong hiện tại thì tự nhiên thấy ra nó trong quá khứ đã diễn biến như thế nào. Nói là “chiêm nghiệm” nhưng thực ra chỉ chiêm nghiệm thật sự khi lắng nghe quan sát thực tại đang là, vì chỉ có thể nhớ lại quá khứ đểsuy ngẫm chứ không thể chiêm nghiệm quá khứ được. Đúng nghĩa từ chiêm nghiệm là quan sát sự kiện đang trải nghiệm. Nếu lo nhớ lại quá khứ để suy ngẫm thì không thể phát hiện được cái ta đang hiện hành ra sao, như vậy làm thế nào mà đánh bật được gốc của bản ngã? Chánh tư duy chỉ có khi có chánh tri kiến trên sự kiện thực tại. Thực tại đó có thể là một hình ảnh quá khứ đang tái hiện tự nhiên. Nhưng tự ý tư duy về quá khứ để tìm tòi thì đó không phải là chánh tư duy mà chỉ là hoạt động của lý trí, phần lớn hoạt động này là vọng niệm. Do đó, đức Phật dạy: “Quá khứ không truy tìm, tương lai không ước vọng, chỉ có pháp hiện tại, tuệ quán chính là đây” vậy.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy, con có 3 câu hỏi, kính xin Thầy chỉ dạy:
1. Ai cũng đi trên con đường lên núi để đến cứu cánh Niết Bàn rồi sau đó hóa độ chúng sinh như hạnh Bồ Tát. Con cũng kiên trì trên con đường nhưng nhìn xuống chân thì không thấy con đường đi nữa, và ngẩng nhìn lên cao cũng không thấy đỉnh núi. Ở trạng thái này thì phải làm thế nào đây?
2. Con cảm nhận dường như mình không có trái tim, không phải là mất cảm giác nhân tính, nhưng cũng không biết tại sao.
3. Ngày xưa nhìn lên trời cao thì cảm giác có chỗ đi về của mình, nhưng bây giờ nhìn lên trời cao thì không biết mình ở đâu nữa. Cảm giác này thật không biết tại sao?
Con thành kính tri ân Thầy.
* (1), (2), (3): Còn cái thấy, ý muốn biết và dụng công để hỏi “tại sao”, “phải làm thế nào” thì TÁNH BIẾT vẫn còn bị che lấp. Buông ra thì không là gì cả mà cũng là tất cả. Lành thay!
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy. 1. Theo con nhận thức được, pháp Thầy chỉ dạy luôn nhấn mạnh vào Tánh Thấy vốn đã sẵn có, đầy đủ nơi mỗi người. Cốt lõi của việc tu tập là buông bỏ cái bản ngã ảo tưởng che lấp để Tánh Thấy soi chiếu trọn vẹn dòng chảy của pháp. Tướng dụng cũng do tùy thời, tùy duyên mà tùy ứng từ tánh thấy, trực tiếp ngay trên mỗi pháp. Con có một điều thắc mắc: Chỗ Tánh Thấy này, nếu hiểu chệch đi một chút sẽ trở thành cái Đại Ngã của Bàlamôn giáo, dễ rơi vào Thường Kiến mà Đức Phật đã phê phán. Con chỉ cảm nhận được mà không biết diễn đạt ra sao ạ. Kính xin thầy giải nghi cho con.
2. Trong cuộc sống của con, khi con ứng dụng sáng suốt định tĩnh trong lành để sống trực tiếp trên pháp, con nhận thấy cuộc sống của mình là một vai diễn trong một vở kịch lớn, và nhiều lúc con thấy ngột ngạt khi phải đóng một vai diễn quá sức. Con nghĩ ý muốn thoát ra khỏi vai diễn đó cũng là bản ngã, mà cuộc sống là vậy không thể nào thoát ra khỏi nó nên con làm theo lời Thầy dạy, nhẫn nại với vai diễn của mình để học ra bài học giác ngộ. Nhưng con vẫn có cảm giác rằng, nếu mình được đóng một vai diễn hợp với mình, hợp với khả năng, hợp với tính cách của mình thì mình sẽ dễ dàng học ra hơn, ít bì gò bó ức chế hơn. Có phải như vậy không thầy? Khi nhận thức ra điều đó, nếu con chủ động đi tìm một vai diễn khác (dù chưa biết cái đó có hợp với mình không), và dám chấp nhận sự thành bại của một vai diễn mới để tiếp tục bài học giác ngộ thì có phải là hành động của vô minh ái dục không thưa Thầy? Con kính chúc Thầy luôn khỏe mạnh.
1) Tánh biết là cái mà mỗi người sẵn có khác quá xa với cái gọi là Đại Ngã trường tồn bất biến. Tánh biết biết pháp thì biến hóa vô cùng trên đối tượng vô thường, làm sao mà bất biến được. Tuệ đầu tiên của thiền Vipassanà là thấy chỉ có danh và sắc, không có bản ngã. Sắc là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân; còn danh là tâm có tánh chất biết pháp nên gọi là tánh biết. Đơn giản vậy thôi sao lại “cảm nhận” ra thành Đại ngã làm gì? (Khi nghe hãy trực nhận ngay điều được nói chứ đừng tưởng tượng rồi so sánh kết luận lăng xăng v.v…). Người không có tánh biết nghĩa là người không có tâm (danh) mà chỉ có thân (sắc) thôi thì khác gì xác chết? Sở dĩ nói tánh biết sẵn có vì người nào mà chẳng có sẵn danh sắc, nếu không có tánh biết sẵn có đó thì lấy gì để tu? Nhưng tánh biết vốn vô ngã nên rất trong sáng. Chính cái ta ảo tưởng che mờ tánh biết nên không phát huy được tánh sáng suốt, định tĩnh, trong lành sẵn có bên trong. Vì vậy mục đích chính của thiền Vipassanà là buông cái ta ảo tưởng đi để tánh biết vô ngã tự soi chiếu thực tánh pháp ngay nơi thân, thọ, tâm, pháp này. Nếu không làm như vậy mà lại đem cái “ta biết” ra tu tập thì tuệ thứ nhất không bao giờ đạt được, làm sao nói đến đắc Đạo đắc Quả gì được!
2) Cuộc sống tự nó không phải là vai diễn, mà là pháp đang vận hành đúng với luật nhân quả duyên báo rất tự nhiên của nó. Cuộc sống là bài học duy nhất của sự giác ngộ, không qua đó mà giác ngộ thì không tìm đâu ra sự giác ngộ ở nơi nào khác. Chính cái ta ảo tưởng lăng xăng phản ứng tạo tác trên cuộc sống đó mới là vai diễn. Vấn đề là có phát huy được sự sáng suốt, định tĩnh, trong lành sẵn có trong tánh biết pháp để loại trừ vai diễn của cái ta ảo tưởng đó đi không, chứ không phải đổi vai diễn này qua vai diễn khác. Bàn ngã đã diễn sai nên tự chuốc lấy ngột ngạt, bây giờ lại tiếp tục sai lầm khi muốn đổi vai diễn khác như ý mình thì thực ra chỉ đổi ngột ngạt này qua ngột ngạt khác mà thôi. Bao lâu còn muốn diễn thì mãi mãi vẫn còn ngột ngạt khôn nguôi!
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy. Có những người bạn con gặp bất an, nếu có duyên, con cũng khuyên họ hãy sáng suốt đón nhận những bài học cuộc sống, và sự an vui thực sự lại nằm chính trong nghịch cảnh cuộc sống chứ không phải ở đâu khác. Nhưng có những điều con nói ra, con chỉ nói theo nhận thức mà chính con chưa làm được. Vì thế, có những lúc đang nói, con khựng lại không nói được vì tự hỏi liệu có phải mình đang nói những lời trống rỗng. Con không biết phải làm sao. Chỉ trên cái nhận thức mà nói, dù là nói vì lợi ích của người khác có được xem là Chánh ngữ không thưa Thầy. Kính xin Thầy chỉ dạy cho con.
Xem câu trả lời
Chia sẻ nhận thức đúng với người khác vì tâm từ, không phải để khoe khoang, không tự tôn tự đại thì vẫn là thiện, vẫn không phải là tà ngữ. Có hai sự chia sẻ về Pháp là chia sẻ PHÁP HỌC, và chia sẻ PHÁP HÀNH. Khi con học được Pháp học đúng, con có quyền chia sẻ với người khác để họ cùng có nhận thức đúng, đó là chia sẻ pháp học. Khi con hành và thực chứng được hương vị của Pháp con đem chia sẻ với những người hữu duyên thì đó là chia sẻ Pháp hành. Biết đâu trong khuyên lơn an ủi người khác con cũng học ra bài học thực tế từ đó. Trong thời đức Phật có nhiều vị đắc Đạo Quả ngay trong khi đang giảng Pháp cho người khác. Ngay trong khi khuyên người khác con thấy ra được mình thì cũng là khuyên lại chính mình. Miễn là không khoác lác này nọ, mà chỉ là giúp người ta giải tỏa được mối bận tâm là được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Tp.HCM, ngày 28 tháng 12 năm 2010.
Kính thưa thầy! Đầu thư con xin chúc thầy luôn vui khỏe, tràn đầy trí tuệ để tiếp tục giáo dục, giúp đỡ, hướng dẫn chúng con trên bước đường tu tập giải thoát…
Xem câu trả lời
Vì câu hỏi quá dài nên thầy sẽ đưa qua mục Thư Thầy Trò trong Thư Viện – Văn để trả lời chi tiết hơn. Mục Hỏi Đáp có giới hạn nên không tiện trả lời dài, con hoan hỷ nhé!
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy, con nghe nói thời kỳ Chánh Pháp là 500 năm, tượng pháp là 1000 năm, và mạc pháp là 10.000.000 năm. Thời kỳ Chánh Pháp và tượng pháp thì còn có thể tu hành chứng quả, còn thời kỳ mạc pháp thì khó có thể chứng đắc và có thầy còn nói thời này là thời mạc pháp chỉ có thể niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh Độ mới chắc chắn thoát khỏi sanh tử luân hồi. Con rất là phân vân, xin Thấy từ bi gỡ rối cho con. Con thành thật tri ân thầy.
Thời kỳ Chánh Pháp là thời gian còn giữ nguyên vẹn Giáo Pháp uyên nguyên của Đức Phật. Tuy 200 năm sau đức Phật Niêt-bàn đã có manh nha một vài kiến giải thay đổi nhưng không đáng kể. Mãi đến 600 năm sau Phật lịch thì mới có sự biến đổi lớn. Trong thời kỳ này nhiều bộ Kinh và Luận ra đời, chủ yếu là biểu hiện tư tưởng triết học và tín ngưỡng của các Luận sư hay Tổ sư. Sự phát triền này đã hình thành nhiều học thuyết và pháp môn phương tiện khác nhau cho phù hợp với căn cơ trình độ dị biệt của con người. Nội dung chính vẫn đúng với Pháp Phật nhưng phương pháp và cách lý giải có sai khác phần nào nên giai đoạn này được gọi là Tượng Pháp. Tượng nghĩa là tương tự như Chánh Pháp nên nếu hiểu đúng thì vẫn là Chánh Pháp, nhưng nếu hiểu sai thì liền rơi vào tà đạo. Nên chính các Tổ cũng cảnh báo là “Ly KInh nhất tự tức đồng ma thuyết”. Từ Tượng Pháp giúp người sau lưu ý rằng vận dụng sáng tạo là tốt nhưng đừng để xa rời Chánh Pháp. Ứng theo lịch sử Phật Giáo thì đúng là thời kỳ Tượng Pháp kéo dài khoảng 1.000 năm, chấm dứt vào khoảng cuối thời kỳ Thiền Tông phân thành 5 phái.
Như vậy, đúng là khoảng 1.500 năm sau Phật Lịch thì Phật Giáo rơi vào thời kỳ Mạt Pháp. Mạt ở đây có nghĩa là nhánh ngọn. Nên trong thời kỳ này các Tông Phái chính phát xuất từ thời Tượng Pháp lại một lần nữa phân chia ra nhiều chi nhánh nhỏ, và mỗi trường phái này tự vận dụng ra phương pháp tu tập riêng theo vị đạo sư của mình. Chính vì sự phân chia nhánh ngọn này mà gọi là thời kỳ Mạt Pháp. Trong thời kỳ này, phần lớn không được học hỏi Chánh Pháp mà chỉ biết tu theo phương tiện của trường phái mình nên khó mà đạt được các bậc Thánh. Tuy nhiên trong thời kỳ này vẫn có những vị Tu-đà-hoàn sinh lại 7 lần, hoặc các vị Bồ-tát đang tu tập chơn chánh (chứ không hiểu theo nghĩa Bồ-tát cứu độ) duy trì Chánh Pháp của Phật, nên những người hữu duyên vẫn có thể tu học đúng Chánh Pháp, có hiệu quả rất cao, chứ không nên quá bi quan như vậy.
Tất nhiên những người căn cơ còn non yếu thì tu theo Mạt Pháp vẫn tốt, vì mạtchứ không phải là mạc theo nghĩa tàn tạ, hư đốn, nên nhánh ngọn mà tu cho đúng thì vẫn là thành phần của đại thọ Phật giáo. Phật giáo được ví như một cây cổ thụ. Gốc và thân gọi là Chánh Pháp, những cành lớn tương tự như thân cây chính nên gọi là Tượng Pháp, còn nhánh ngọn sum sê tươi tốt gọi là Mạt Pháp, chứ đừng hiểu thành Mạc Pháp là cây đã héo tàn mà bi quan yếm thế!
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Sư. Con xin hỏi:
1. Trong bài kinh Tứ Niệm Xứ Đức Phật nói đến cả thiền định không hay chỉ thiền tuệ (vipassana) thôi ạ? Trong bài giảng Đại Niệm Xứ phần niệm thân có nói đến phép quán xét bất tịnh hay quán xác chết bị phân hủy dần (phần này cũng được ghi lại khá dài trong kinh), cái này là thiền định hay thiền tuệ ạ? Và khi hành giả thực hành loại thiền này thì cần nhìn trực tiếp hay dùng tranh ảnh tử thi cũng được ạ?
2. Con đọc lại một câu trả lời cũ của Sư trong mục hỏi đáp này Sư có nói đến phép quán niệm hơi thở (16 phép quán niệm hơi thở) là để hóa giải thiền định chứ không phải để tu thiền định an chỉ như nhiều người lầm tưởng. Xin Sư giải thích rõ hơn điều này được không ạ? Phiền não của định an chỉ là gì và tại sao phép quán niệm hơi thở lại có thể hóa giải được nó?
Chúc Sư mạnh khỏe và an lạc ạ.
1) Kinh Tứ Niệm Xứ chủ yếu là để hành thiền tuệ. Nhưng trong đó có nhiều đối tượng vừa có thể là đề mục thiền tuệ, vừa là đề mục thiền định, chỉ khác nhau về cách hành mà thôi. Vì vậy mà nhiều người không phân biệt được hai cách hành đã sử dụng những đối tượng này như đề mục thiền định mà tưởng là thiền tuệ. Đó là khi hành giả tách rời hai pháp tu định và tuệ ra riêng theo chế định, nhưng trong pháp hành thiền tuệ thì định và tuệ 2 yếu tính không thể tách rời nhau. Giống như mặt hồ yên thì soi rõ cảnh, mặt hồ động thì cảnh vật tan mất. Trong thiền gọi hai công năng này là tịch và chiếu.
2) Khi một người đắc định an chỉ về hơi thở, mỗi lần người ấy hành vipassanà thì một số trạng thái của định lại xen vào làm phát sinh 10 chướng ngại gọi là phiền não của thiền tuệ (xem Thư Thầy Trò (9) trong Thư Viện – Văn). Để thoát khỏi 10 chướng ngại đó, hành giả phải vào lại hành trình niệm hơi thở trong thiền đinh, nhưng đến giai đoạn nào thì phải dùng thiền tuệ quan sát rõ trạng thái đó để thoát ra, không để đắm vào trạng thái đó (sắc ái, vô sác ái), nên gọi là phép hóa giải thiền định.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy! Vậy có thể nào, một người không cần trải nghiệm thực tế nơi chính mình mà vẫn học được bài học pháp qua kiến thức, qua quan sát những trường hợp xảy ra trong cuộc sống xung quanh, để thấy được nhân quả, sinh diệt, vị ngọt và sự nguy hại của pháp không ạ? Con cảm ơn thầy!
Xem câu trả lời
Có thể “qua kiến thức, qua quan sát những trường hợp xảy ra trong cuộc sống xung quanh, để thấy được nhân quả sinh điệt, vị ngọt và sự nguy hại của pháp” nhưng với điều kiện trong những kiếp trước đã từng trải nghiệm và học ra bài học đó rồi. Do đó trong kiếp này, dù chỉ nghe thấy bên ngoài cũng có thể xuất ly. Nhưng nếu bây giờ vẫn không xuất ly được chứng tỏ là bài học đó chưa học được một cách hoàn toàn.