Kính bạch Thầy, đầu tiên con kính chúc Thầy sức khoẻ. Con xin phép được hỏi Thầy một câu hỏi. Con có nghe nhiều người nói về Thiền và Yoga. Có người nói rằng Yoga bao quát hơn Thiền, thiền có trong Yoga. Vậy nói rằng Yoga bao quát hơn thiền có đúng không ạ? Xin Thầy chỉ cho con để con có thể hiểu rõ thêm về sự khác nhau giữa thiền và yoga cũng như mục đích của nó.
Con xin cảm ơn Thầy.
Cái này thì khó nói lắm, bởi khi so sánh là đã rơi vào khái niệm rồi, mà khái niệm thuộc tục đế, do quy ước của cá nhân hay xã hội thế gian. Khái niệm quy ước là gán cho cái gì đó một ý nghĩa mà người ta “nghĩ” là thế, chứ chưa hẳn là thế! Cho nên có “tôi nghĩ thế” hay “tôi cho là thế”. Ở đời ai mà chả quy ước cho cái của mình là đúng là hay hơn của người khác. Nhưng luật tục đế muôn đời vẫn là: “Lý của kẻ mạnh luôn luôn thắng”, vì vậy trong thế gian này, nếu kẻ mạnh nói họ đúng hơn thì tốt nhất là đừng cãi lại, còn nếu kẻ yếu nói thì mỉm cười là đủ rồi, hơi đâu mà tranh chấp hơn thua, bởi giữa đời này hơn thua không nói lên được sự thật như nó đang là. Khổ một nỗi bản chất thật của pháp thì vượt ngoài khái niệm sai – đúng, hơn – thua, làm sao mà so sánh được đây?
Do vậy, đức Phật mới dạy trong kinh Kalama là hãy cứ thực nghiệm đi rồi biết thực sự nó ra sao chứ không nên “tin là…”, “cho là…”, “nghĩ là…” Vậy thực nghiệm để biết gì? Để biết rằng: Điều này là tạo tác của bản ngã tham sân si (Tập đế) đưa đến sầu-bi-khổ-ưu-não (Khổ đế), điều này là chánh trí không do bản ngã tham sân si tạo tác (Đạo đế) nên không còn sầu-bi-khổ-ưu-não (Diệt đế: Tịch tịnh Niết-bàn, Không, Vô tướng, vô tác, vô nguyện). Do đó pháp này thuộc chân đế, được các bậc Thánh goi là pháp VÔ TỶ, không thể nào so sánh được. Vậy con nói làm thế nào mà thầy so sánh với cái gì được đây?
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy, con đã có duyên may được đến nghe Thầy giảng Thiền (Khóa thứ 5 tại Tổ đình Bửu Long) vừa qua, con vô cùng cảm ơn Thầy đã khai thị cho con một số không ít những vấn đề về Phật pháp. Nay con có một thắc mắc này, xin Thầy vui lòng chỉ bảo, giải thích giúp con:
Thưa Thầy, đọc qua một số kinh sách Bắc Tông, con thấy các vị Bồ-tát thường có hạnh nguyện: “Khi nào chúng sinh chưa được độ tận thì ta chưa thành Phật”, hoặc khi đã thành Phật thì nguyện rằng: “Khi nào chúng sinh còn khổ thì ta còn trở lại thế giới Sa-bà này để độ chúng sinh qua bến giác”. Thưa Thầy, theo con hiểu thì khi những hạnh lành (Bồ-tát) hay tánh biết (Tánh Giác, Phật) nơi ta khai mở thì ta sẽ có từ bi, trí tuệ… tương ứng, và vấn đề hạnh nguyện chỉ là một cách diễn dịch của người đời bằng khái niệm hình tượng, ngôn từ mà thôi. Hoặc những người còn mê muội như chúng con, trên con đường học Phật, cần nói như vậy để khuyến khích phát triển hạnh nguyện hầu tiến dần đến khai mở tánh biết và hạnh lành. Còn nếu nhìn bằng nhãn quan nhị nguyên hoặc xét từ góc độ của quy luật âm dương thái cực, thì chẳng lẽ Phật và Bồ-tát cũng vẫn còn luân hồi sinh tử, vì mọi sự vật hiện tượng khi đã đạt mức cực dương thì sẽ chuyển sang âm: giống như khi ta đã đạt được quả vị Phật rồi thì lại trở xuống làm chúng sinh. Nói cách khác, khi nào còn “Ma” thì còn “Phật” (mà cuộc sống thì chẳng bao giờ hết “Ma” nên nếu hiểu thế giới theo kiểu nhị nguyên đối đãi: luôn có sai có đúng, có Ma có Phật, có yêu có ghét…), và chỉ khi nào không còn bản ngã tham sân si thì mới thấy thế giới như thực tánh, không còn thấy Ma thấy Phật nữa mà thôi.
Con xin tóm lại, điều con muốn hỏi là phải chăng từ Phật trong quan niệm này là chỉ cho tánh giác và Bồ-tát là ám chỉ cho hạnh từ bi, trí tuệ… Khi khai mở được tánh biết(Phật) và các hạnh làmh (Bồ-tát) đến tột độ thì chỉ thấy từ bi, trí tuệ… không còn thấy ma thấy Phật, thấy sinh thấy tử nữa. Chứ Phật và Bồ tát nếu còn thị hiện một cách hữu vi như chúng sinh thì vẫn luân hồi sinh tử như thường, có phải không ạ?
Thành kính cảm ơn Thầy.
Ngọc Thu
Giáo lý nguyên thủy của đức Phật hầu như không đề cập đến những vấn đề Phật và Bồ-tát thị hiện cứu độ chúng sanh theo kiểu đó. Quan niệm này mãi đến 600 năm sau đức Phật nhập diệt mới phát sinh trong các Hệ Phái Phật Giáo phát triển. Đến hơn 1.100 năm sau đức Phật Niết-bàn, Thiền Tông Đông Độ ra đời, vị Tổ thứ 6 là Ngài Huệ Năng đã xác định lại “độ chúng sanh” là vượt qua vô số phiền não phát sinh trong tâm (Tự tánh chúng sanh vô biên thệ nguyện độ). Bởi vì một số Luận Phái phát triển đã biến Phật Pháp thành triết học và tín ngưỡng để đáp ứng yêu cầu sở tri và sở đắc của con người, hơn là chú tâm vào việc hóa giải những khổ đau bức thiết trong hiện tại, như tinh thần giác ngộ giải thoát ban đầu của đức Phật.
Bồ-tát theo nghĩa nguyên thủy là người biết sử dụng tánh giác để giác ngộ và giải thoát khỏi cái ta ảo tưởng. Chính cái ta ảo tưởng này tạo ra “vô số chúng sanh phiền não đau khổ trong tâm” mà chủ yếu là phát xuất từ vô minh ái dục, cụ thể như tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến v.v. Chính những “chúng sanh” này là hiện thân của đau khổ và tạo ra đau khổ cho mỗi người, vì vậy đối với bất cứ ai khi chưa “độ tận” chúng sanh (vượt qua phiền não) trong tâm mình thì có muốn thành Phật cũng không được, nên muốn giải thoát thì phải phát hạnh nguyện độ thoát phiền não (bản ngã chúng sanh) chứ đâu còn cách nào khác! Đối với chúng sanh bên ngoài thì người giác ngộ có thể chỉ đường cho họ để họ tự đi chứ không ai độ ai được.
Còn nói Phật thị hiện theo kiểu “Khi nào chúng sanh còn khổ thì ta còn trở lại thế giới ta-bà để độ chúng sanh qua bến giác” thực ra chỉ có nghĩa là khi nào còn xem thân ngũ uẩn này là bản ngã thì còn “chúng sanh phiền não khổ đau” nên gọi cái ta ngũ uẩn là thế giới sa-bà. Lúc đó chỉ còn trông cậy nơi tánh giác quay trở lại (chánh niệm) soi sáng mới mong phá trừ mọi vọng niệm (tỉnh giác) của cái ta ngũ uẩn đó để cứu thoát thực tại thân tâm (thân, thọ, tâm, pháp) ra khỏi cái ta ảo tưởng tạo tác khổ đau sinh tử mà thôi. Vì vậy câu nói trên có thể hiểu như sau: “Khi nào còn phiền não khổ đau (chúng sanh khổ), thì tánh biết phải nguyện quay lại nơi thân ngũ uẩn này (thế giới sa-bà) để hóa giải cái ta ảo tưởng trở về với thực tánh pháp”
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy!
Con có một người quen, cô ấy sống vô cùng hạnh phúc, tài vật trên thiên hạ không thiếu thứ gì, con cái đề huề, gia đình sung túc. Thế nhưng chồng cô ấy đột ngột ra đi. Do tình yêu thương quá sâu nặng, đã ba năm nay, ngày nào cô ấy cũng nhìn di ảnh của chồng và khóc đến nỗi đôi mắt đã mờ và gần như muốm mù. Gia đình bạn bè khuyên can mà không thể giúp được cô ấy. Con xin Thầy chỉ cho con khuyên cô ấy ra sao để cô ấy bớt đau khổ. Con cảm ơn Thầy
Xem câu trả lời
Có lẽ con không nên khuyên lơn gì cả. Con chỉ nên thương yêu thông cảm và giúp đỡ bạn ấy là đủ rồi. Khổ đau cũng có giá trị nhất định của nó. Chính nỗi khổ là lời khuyên tốt nhất để bạn ấy hiểu ra chính mình. Vấn đề không phải là bớt khổ hay hết khổ, quan trọng là có thấu hiểu được thông điệp mà nỗi khổ đó thì thầm ngày đêm với bạn ấy hay không. Nếu có khuyên thì chỉ nên khuyên bạn ấy lắng nghe lại nỗi khổ của mình để thấy ra ý nghĩa đích thực và sâu xa của nó. Khi lắng nghe lại nỗi khổ của mình, bạn ấy đã đưa tâm về với thực tại, tâm càng trọn vẹn với thực tại càng giảm dần những hoài niệm quá khứ. Như vậy không những thoát ra khỏi vũng lầy của những kỷ niệm buồn đau quá khứ mà còn thấy ra được bản chất thật của nỗi khổ niềm đau. Rồi có một ngày, khi nhân duyên đầy đủ, tâm hoàn tỉnh lại, thấy ra mọi lẽ thật vô thường, khổ và vô ngã của cuộc sống, bạn ấy sẽ không bao giờ mắc phải sai lầm mà chính tâm trí mình đã tạo dựng lên biết bao khổ lụy cho mình và cuộc đời như vậy nữa. Hãy để cho bạn ấy chiêm nghiệm nỗi đau của mình vì đã tạo ra khổ đau thì chỉ còn cách duy nhất là học ra bài học khổ đau đó để giác ngộ giải thoát mà thôi. Nếu con chỉ muốn giúp xoa dịu cơn đau của bạn ấy thì làm sao bạn ấy thấm thía được bài học giác ngộ của mình?
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy,
Một anh bạn có nghe Thầy giảng đại ý là làm gì thì cũng nên thuận pháp, đừng có miễn cưỡng. Ví dụ, nếu mình làm kinh doanh, mà tự thấy sức của mình, tiềm lực tài chính của mình chỉ có thể làm 100 cái bánh mỗi ngày để bán, thì chỉ nên làm từng đó, chứ đừng cố làm nhiều hơn, vừa mệt người vừa dễ thất bại. Nhưng cuộc sống không đơn giản cho ta làm theo ý mình mà còn phải đối đầu với luật cạnh tranh. Ví dụ cần phải tăng hay giảm theo mức cung cầu hoặc theo luật cạnh tranh trong kinh tế thị trường. Vậy thuận pháp là làm theo khả năng như thầy nói hay phải thuận theo luật cạnh tranh khốc liệt? Ngả nào cũng bị thua thiệt, vậy có nên thuận pháp không và phải thuận pháp như thế nào? Kính xin thầy giải đáp cho chúng con.
Nói chung mấu chốt ở chỗ các con chưa rõ chữ Pháp lắm. Pháp có hai loại: Chân đế (paramattha) và tục đế (sammutti). Chân đế là bản chất thật của vạn pháp, còn tục đế là quy ước của xã hội (pannatti). Chữ Pháp thầy nói thuộc về chân đế hay thực tánh pháp, còn pháp mà các con đang lý luận thuộc về tục đế, “sự thật” theo quy ước xã hội. Quy ước xã hội có thể thay đổi, còn thực tánh pháp thì luôn theo nguyên lý nhất quán. Vậy các con cần phải phân biệt những điều sau đây trước khi muốn hiểu được cụm từ tùy thuận pháp nói lên điều gì:
– Thuận theo chân đế (thực tánh pháp) gọi là tùy pháp. Đó là người thường tinh tấn chánh niệm tỉnh giác hay sáng suốt định tĩnh trong lành, sống trọn ven trong pháp, không còn sống theo tư kiến tư dục nữa, nói cho dễ hiểu là không sống theo quan niệm, khuôn sáo hay thành kiến cố chấp mà là sống theo nguyên lý vận hành của thực tánh pháp.
– Thuận theo nguyện lực hay quyết định ba-la-mật gọi là tùy nguyện. Đó là những bậc thiện trí thức nguyện dẹp bỏ cá nhân ích kỷ để sống vô ngã vị tha. Lấy phục vụ để tự toàn, và lấy tự toàn để phục vụ chứ không tính toán cho ích kỷ cá nhân, vượt ngoài những so đo hơn thua, thành bại…
– Thuận theo tục đế (quy ước xã hội) gọi là tùy chúng. Quy ước xã hội có đúng có sai, có thiện có ác, chính vì vậy mà cần phải thận trọng chú tâm quan sát mới có thể điều chỉnh nhận thức và hành vi cho đúng tốt được. Bậc trí cũng có thể tùy chúng mà không sai lầm, nên mới có câu “tùy thuận chúng sinh vô quái ngại”, hay “tòng tâm sở dục bất du củ”.
– Thuận theo vô minh ái dục của bản ngã gọi là tùy ngã. (Nói theo đạo Thiên Chúa là bán linh hồn cho quỷ satan).
Do chỉ hiểu ngang tầm mức tùy chúng và tùy ngã, chưa hiểu được tùy pháp và tùy nguyện nên các con chỉ muốn giải quyết vấn đề trên bề mặt tục đế để thỏa mãn nhu cầu sở tri, sở cầu và sở đắc của bản ngã, vậy thì làm sao buông mọi lý luận lăng xăng để thấy pháp được? Không thấy pháp làm sao sống thuận pháp?
Hãy xem trong 4 loại trên các con định thuận theo loại nào đây?
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy!
Hiện nay con vẫn chuyên tâm đọc sách và chuyển tâm hướng thiện với mục đích là sau khi thoát bỏ kiếp sống hiện nay thì con có thể tái sinh nơi Cực Lạc. Vậy việc con nghĩ và làm có đúng không? Mục đích của việc con làm có đúng theo tinh thần của đạo Phật không? Con mong Thầy chỉ đường dẫn lối cho con được sáng tỏ.
Con cảm ơn Thầy.
Đức Phật dạy: “Santi paramam sukham: Tịch tịnh là cực lạc” . Nghĩa là nơi đâu tâm tịch tịnh nơi đó là cực lạc. Cho nên có câu “Tùy kỳ tâm tịnh tức Phật Độ tịnh”, vì vậy tâm thanh tịnh chính là cõi Cực Lạc Tịnh Độ rồi. Không phải là sau khi chết (thân hoại mạng chung) mới lên Cực Lạc, mà là sau khi “chết” đi cái bản ngã vọng động lăng xăng tìm cầu và tạo tác thì tâm liền tịch tịnh, nên ngay đó đã là Cực Lạc Tịnh Độ, chứ không cầu đâu xa. Vi vậy cổ đức mới nói một khi đã thanh tịnh thì “Bất lao đàn chỉ đáo Tây Phương”,đến Tây Phương mà không mất sát-na nào có nghĩa là ngay đó đã trở thành Tây Phương rồi, khỏi nhọc công (bất lao) đi tìm đâu cả. Tóm lại, cứ tu sao mà thân khẩu ý, tức hành động, nói năng, suy nghĩ thanh tịnh là có cực lạc ngay, đừng lo lắng vọng cầu gì cả. Khi thân khẩu ý thanh tịnh thì tánh biết rỗng lặng trong sáng (vô lượng quang) sẽ soi sáng dẫn dắt con sống trong giác ngộ giải thoát (điều này được biểu tượng thành đức Phật Vô Lượng Quang tiếp dẫn vào cõi Tây Phương).
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, Có vị nói nếu còn thấy phiền não tức chưa thấy pháp. Nhưng cái gọi là phiền não tức là pháp bởi vì nó là chất lửa để rèn dũa tôi luyện chất vàng là lòng từ bi, hỷ xả, nhẫn nhục v.v…
Trước hết phải định nghĩa lại từ phiền não vì rất nhiều người dùng nó với nghĩa đau khổ. Với nghĩa đó thì nên dùng từ nhiệt não, phiền khổ hay khổ não thì đúng hơn. Và đau khổ này thuộc về quả của nghiệp bất thiện. Còn phiền não (kilesa) lại thuộc về nghiệp nhân, là phản ứng tạo tác nghiệp bất thiện. Phiền não cụ thể là những tâm sở bất thiện như sau: Tham, sân, si, ngã mạn, tà kiến, hoài nghi, hôn trầm, trạo cử, vô tàm, vô quý trong đó bao hàm dục ái, hữu ái, sắc ái, vô sắc ái.
“Thấy phiền não” có 2 nghĩa: 1) Nếu phiền não được hiểu theo nghĩa đau khổ thì có hai loại: a) Bị chìm đắm trong đau khổ. b) Thấy thực tánh của đau khổ. 2) Nếu hiểu theo nghĩa những phản ứng tạo tác nhân bất thiện thì cũng có hai loại: a) Bị thúc đẩy sai sử bởi cái ta tạo tác bất thiện. b) Thấy ra sự lăng xăng tạo tác của bản ngã bất thiện… Ví dụ khi sân thấy sân, khi tham thấy tham…(Theo Kinh Tứ Niệm Xứ).
Trong 4 loại trên thì 1b là thấy thực tánh pháp trong quả của nghiệp; 2b là thấy thực tánh pháp trong nhân tác nghiệp. Thấy phiền não trong 2 loại này mới gọi là thấy pháp. Còn thấy phiền não trong loại 1a và 2a thì gọi là mê mờ trong nhân quả của pháp, vì vậy nói là bị phiền não thì đúng hơn là thấy phiền não, mà bị phiền não thì đúng là không thấy pháp. Nếu biết học bài học từ đau khổ, phiền não thì đau khổ phiền não có thể là chất lửa rèn dũa tôi luyện từ bi, nhẫn nại. Nhưng một khi đã bị phiền não tham sân si sai sử thì làm sao mà có được từ bi, nhẫn nại? Đó chính là ý nghĩa câu nói: “Khi mê bị pháp chuyển, khi ngộ mới chuyển pháp”.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy,
Con xin phép được hỏi Thầy, mong Thầy hoan hỉ chỉ dạy cho con ạ.
Thầy chỉ giúp con sự khác biệt giữa CHUYỂN HÓA HỮU NGÃ VÀ VÔ NGÃ.
Theo con hiểu khi vô ngã thì đâu có ai khởi tâm chuyển hóa và vô ngã thì thế nào cũng được, không chấp không trụ, tâm luôn bình thản, rỗng lặng, trong sáng thì chuyển hóa để làm gì. Còn khi hữu ngã thì chuyển hóa chỉ để trở thành bản ngã khác, vậy chuyển hóa cũng chỉ trong vòng luẩn quẩn mà thôi. Con mong Thầy chỉ dạy cho con thêm sáng tỏ.
Con kính chúc Thầy thân tâm an lạc.
Con xin cảm ơn Thầy.
– Khi chưa thấy vô ngã thì chuyền hóa có nghĩa là cố gắng tu luyện cho bản ngã tốt đẹp hơn và trong sạch hơn. Điều này cũng tốt trong vòng tục đế, để ổn định cuộc sống một cách tương đối.
– Khi bắt đầu thấy vô ngã thì chuyền hóa có nghĩa là chỉ cần lắng nghe quan sát pháp để học ra tính chuyển hóa tự nhiên trong vận hành của pháp hơn là can thiệp hay chuyển hóa theo ý mình. Như vậy, ở giai đoạn này, chuyển hóa là thấy pháp và sống tùy thuận pháp.
– Khi đã hoàn toàn vô ngã thì cố ý chuyển hóa hay chuyển hóa tự nhiên đều tùy duyên thuận pháp, không còn chỗ nương tựa chấp trước, đó là bậc đã giác ngộ giải thoát, thong dong vô ngại.
Vậy tùy theo mức độ, tùy theo tình huống mà ứng xử. Chuyển hóa thì tùy duyên, quan trọng là thấy ra đâu là ngã đâu là pháp để không còn chấp ngã chấp pháp thì mới thong dong tự tại.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, con đọc Kinh, nghiên cứu Phật Pháp, muốn thực hành để chứng nghiệm ý Kinh, nhưng trong quá trình thực hiện cũng không phải dễ dàng. Thưa thầy, khi sự lo âu sợ hãi diễn ra, mình phải làm thế nào? Xin thầy cho con biết quá trình tu tập các sư có gặp như vậy không? Con xin cảm ơn
1) Thực hành để chứng nghiệm ý Kinh là cả một vấn đề. Nếu con đọc Kinh sách, nghiên cứu Phật Pháp nhưng hiểu sai thì lấy cái sai mà hành làm sao chứng nghiệm được ý Kinh? Nếu con hiểu đúng thì sẽ hành đúng, và lúc đó hiểu, hành và chứng nghiệm hầu như là một, sao lại không dễ dàng? Hễ thấy khó thì coi chừng con hiểu còn sai đó. Vậy đừng vội hành khi chưa thật sự hiểu.
2) Ngừa bệnh hơn chữa bệnh. Cũng vậy đừng để lo âu sợ hãi diễn ra rồi mới lính quýnh không biết “phải làm thế nào”. Khi con nói “phải làm thế nào” không phải cũng là lo âu sợ hãi đó sao? Người xưa nói: “Đừng để mất bò mới lo làm chuồng”. Nếu hàng ngày con thường biết mình (chánh niệm tỉnh giác) khi hành động, nói năng, suy nghĩ thì lo âu sợ hãi sẽ khó mà phát sinh. Cho dù có thì con cũng sẽ biết lắng nghe nó một cách khách quan, trọn vẹn và thấy rằng nó là pháp duyên khởi, có sinh có diệt, chỉ cần không mê muội với nó là được, có gì phải lo ngại?
3) Mỗi người tu có mỗi tình huống khác nhau nhưng bản chất của pháp thì giống nhau. Con cứ ngay nơi tình huống của mình mà thấy để tự điều chỉnh nhận thức và hành vi cho đúng bản chất thật của pháp, chứ không cần bắt chước hay so sánh với ai để sinh ra phân tâm và ngã mạn.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, con có một câu hỏi muốn nhờ thầy giải đáp. Khi con nghe pháp thoại, tâm của con cảm thấy thật an lạc và thoải mái, như vậy có nghĩa là sống thật với hiện tại chưa hay là chỉ thỏa mãn bản ngã tham sân si? Con cám ơn thầy.
Xem câu trả lời
Nếu nghe pháp thoại mà có sự chú tâm giúp mình trọn vẹn với thực tại (tâm không tán loạn) và có thể nhận chân được sự thật mà phát sinh an lạc tự nhiên thì rất tốt. Nhưng nếu nghe với tâm thích thú vì thu thập được thêm nhiều kiến thức thì cảm giác hỷ lạc đó là tham và mạn. Đó chính là hoạt động của bản ngã.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy con cảm thấy hình như tánh biết của Phật với tánh biết của mỗi người chúng ta đều khác nhau. Vì sao vậy? Vì khi người khác ăn cơm thì người khác no chớ chúng ta không có no. Người khác bệnh thì người khác đau đớn chớ chúng ta không có đau đớn. Người khác nhập định thì người khác an lạc chớ chúng ta không có an lạc. Vì vậy theo con tánh biết đó chính là ta. Nếu ta trở về sống với tánh biết đó thì ta sẽ được giải thoát khỏi mọi khổ đau. Còn nếu chúng ta bỏ quên tánh biết đó chạy theo trần cảnh thì sẽ bị trầm luân sanh tử. Con hiểu như vậy có đúng không xin Thầy hoan hỷ chỉ dạy. Nam mô Hoan hỷ tạng bồ tát.
Xem câu trả lờiTánh biết không khác, nhưng cái biết ở mỗi người có khác. Do mức độ che lấp của bản ngã nơi mỗi người mà cái biết nơi họ trở thành sai khác, vì vậy nhân quả mỗi mỗi đều khác nhau. Vậy trở về tánh biết mà tu chứ không phải lấy cái biết đã bị giới hạn trong bản ngã mà tu. Nếu không nhận ra điều này thì sai một ly đi một dặm đó. Ví như nước có tánh giống nhau nhưng nước cam, nước trà, nước sữa, nước sông, nước biển… đều có tướng trạng khác nhau. Chúng sanh bất đồng vì cho mình là cam. là trà, là sữa… nên có tranh chấp hơn thua, có phân biệt ta người. Chỗ sai không phải là cam, là trà mà là chấp cái ta ảo tưởng mình là cam, là trà, không biết rằng tánh nước vẫn như nhau, còn cam, trà chỉ là tướng dụng tùy duyên mà sinh mà diệt nên gọi là vô thường, khổ, vô ngã. Tu chính là loại trừ cái biết giới hạn của bản ngã để trở về với tánh biết vô cùng và vô ngã. Quan trọng là có biết thực không chứ đừng gán cho nó lả Thượng Đế, Phạm Thiên hay Đại Ngã, Phật Tánh gì cả.