Kính thưa Thầy!
Con đã suy nghĩ rất lâu mới mạnh dạn hỏi Thầy rằng: Thầy có niềm vui hay nỗi buồn không? Và niềm vui hay nỗi buồn của Thầy là gì ạ? Con hỏi Thầy như vậy vì con không biết một bậc giác ngộ thì sẽ lấy gì làm niềm vui, và có gì có thể làm cho vị ấy buồn được?
Điều thứ hai con muốn hỏi Thầy là: Hiện nay con đang rất lo sợ vì con đang rất hạnh phúc và đầy đủ nhưng con hiểu rằng cuộc sống hiện tại là giả tạm. Nếu ta yêu cái giả, tạm thì ta sẽ chìm trong luân hồi. Thầy dạy con rằng cứ tu sao mà thân khẩu ý, tức hành động, nói năng, suy nghĩ thanh tịnh là có cực lạc ngay, đừng lo lắng vọng cầu gì cả. Nhưng con vẫn bị chấp bởi cái Ta và của Ta. Như vậy con phải làm sao? Xin Thầy chỉ dạy cho con. Con cảm ơn Thầy.
1) Giác ngộ là một từ rất rộng để chỉ trình độ tu chứng khác nhau như sau: Có niềm tin nơi Pháp; thông hiểu được Pháp; thấy được thực tánh của danh sắc; thấy pháp sinh diệt; thấy vô thường, khổ, vô ngã; thấy đâu là pháp đâu là phi pháp; có 7 pháp thanh tịnh; chứng đạo và quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Duyên Giác Phật, Toàn Giác Phật. Tùy theo trình độ giác ngộ mà còn tham sân si … hay không. Một bậc giác ngộ đến Thánh đạo quả Tu-đà-hoàn vẫn còn sân, dục ái, sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn, trạo cử, vô minh, vẫn còn vợ chồng con cái. Chỉ có bậc A-la-hán, Bích Chi Phật, Toàn Giác Phật mới hoàn toàn không còn vô minh ái dục. Nếu con thật sự hiểu được những trình độ tu chứng trên như thế nào thì tự con sẽ biết ai giác ngộ tới đâu ngay thôi, chứ bây giờ thầy có nói gì đi nữa con cũng đâu biết thực hư ra sao, phải không con? Lần sau nhớ đừng hỏi câu hỏi như vậy nữa nghe!
2) Con hiểu cuộc đời là giả tạm thật sao, hay chỉ nghe người ta nói rồi tưởng tượng lung tung? Nếu con thật sự thấy đời là giả tạm thì hạnh phúc đau khổ gì cũng đều giả tạm, vậy con lo sợ có ích gì? Theo thầy tạm thì có vì cái gì cũng vô thường sao không tạm bợ được, nhưng giả thì không, giả thì sao đói lại ăn, khát lại uống, lạnh đắp chăn, nóng mở quạt? Vậy trên đời cái gì cũng thật cả chỉ có cái ta ảo tưởng tưởng tượng vẽ vời ra đủ thứ trên đời mới tạo ra một cuộc sống giả vọng cho riêng nó mà thôi. Thực ra, cuộc sống có hai mặt: thật và giả. Thấy được cái gì thật, cái gì giả may ra con mới hành động, nói năng, suy nghĩ đúng theo cái thật, không theo cái giả. Nếu thấy đúng làm đúng theo cái thật thì không phải là thanh tịnh, cực lạc sao? Còn một khi đối với các pháp vô thường tạm bợ mà con lại có ảo tưởng chấp ta và của ta, rồi vọng cầu chúng thường, lạc, ngã theo ý mình, không thấy rõ bản chất vô thường, khổ, vô ngã của chúng thì đó không phải là con đã tạo ra cho mình một cuộc sống giả tạm hay sao? Và hậu quả đương nhiên là phiền não khổ đau, luân hồi sinh tử, đúng không con?
Con hỏi thầy bây giờ con phải làm sao ư? Lẽ ra điều đó con phải tự hỏi con mới đúng. Đừng hỏi buồn vui của ai làm gì. Nếu con không chịu nhìn lại chính mình để ngay nơi thân tâm có vui có buồn ấy mà thấy ra cái gì chân cái gì giả, thì làm sao tự điều chỉnh nhận thức và hành vi cho đúng tốt (thuận pháp) đây?Không ai thay thế cho con được đâu. Khi con đã thận trọng, chú tâm, quan sát lại chính mình để thấy rõ bản chât của thực tại trong ngoài, thì mọi thắc mắc tự có câu trả lời. Thầy chỉ trợ giúp khi con thật sự cần thôi!
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy! Con vẫn chưa biết việc sử dụng “Như lý tác ý” trong việc hành thiền minh sát là phải như thế nào? Kính mong Thầy chỉ giúp con. Nếu được, xin Thầy cho ví dụ cụ thể. Con xin cám ơn Thầy.
Trước hết phải phân biệt hai từ: “Tác ý” là manasikàra và “Tư tác” là cetanà. Tác ý có nghĩa là hướng nhận thức của tâm, do đó chỉ có hướng nhận thức đúng sự thật (Như lý tác ý: Yoniso manasikàra) và hướng nhận thức sai sự thật (Phi như lý tác ý: Ayoniso manasikàra); trong khi tư tác là thái độ hành động hay phản ứng của tâm, do đó có thái độ thiện, thái độ bất thiện và thái độ duy tác. Ví dụ: Khi đi thấy “ta đi” là do hướng nhận thức của tâm sai sự thật (phi như lý tác ý), khi đi chỉ thấy động tác di chuyền của sắc pháp và tánh biết biết sắc di chuyển thôi là do hướng nhận thức của tâm đúng sự thật (như lý tác ý). Còn khi đi thấy “ta đi” mà tâm khởi tham, sân, v.v… là phi như lý tác ý và tư tác bất thiện; còn khi đi mà thấy thuần sắc pháp di chuyển tức là như lý tác ý và tâm chánh niệm tỉnh giác là tư tác thiện hoặc duy tác.
Nhiều người hiểu rằng ra lệnh “ta phải đi thế này mới đúng”, “ta không được đau”, “ta không được sân” v.v… là như lý tác ý, thực ra đó là tư tác chứ không phải tác ý. Tư tác như vậy là chủ quan, hữu ngã, mà ngầm bên trong là tâm sân vi tế, thì chắc chắn phát xuất từ phi như tác ý, hoàn toàn không phải là như lý tác ý vì thiếu chánh niệm tỉnh giác đích thực, không thể thấy thực tánh của động tác đi, của cảm giác đau và của tâm sân ấy được. Tốt nhất muốn có như lý tác ý thì đừng xen cái ta ảo tưởng vào là được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy,
Thầy dạy rằng lúc động dụng thì “thận trọng, chú tâm, quan sát” là thực hành Vipassanà rồi. Như vậy thì những người làm các công việc cần sự chú tâm cao như: thợ điêu khắc hay bác sĩ giải phẫu thì có phải thực chất là họ đang hành Thiền Vipassana không? Con nghĩ là nếu thận trọng, chú ý thuần túy thì Tâm để hoàn toàn trên đối tượng, còn hành Vipassanà thì Tâm phải để trong thân, chứ không tập trung hoàn toàn trên đối tượng, đồng thời khi đó ta phải ý thức, hay biết được sự chú tâm của mình. Con hiểu như vậy có đúng không ạ? Con kính xin Thầy chỉ dạy. Con xin cám ơn Thầy.
Thận trọng, chú tâm, quan sát là những tâm sở tự nhiên ai cũng có, nên bất cứ ai biết ứng dụng chúng một cách nhuần nhuyễn chính xác thì đều gặt hái được những kết quả như ý (về mọi phương diện). Một người nọ đang hành nghề xiếc, trong lúc anh ta đang biểu diễn đã đắc đạo quả ngay khi đức Phật nói một câu kệ, chính là nhờ nghề của anh ta đã giúp anh ta thiện xảo trong thận trọng, chú tâm, quan sát. Khi thận trọng chú tâm quan sát vượt khỏi mọi ý đồ của bản ngã thì chúng là tột đỉnh của chánh niệm tỉnh giác, lúc bấy giờ đối tượng của chúng là thực tại chân đế, Niết-bàn.
Không phải hành Vipassanà là tâm phải để trong thân mà là phải thận trọng chú tâm quan sát (tức tinh tấn chánh niệm tỉnh giác) trên đối tượng thân thọ tâm pháp. Như khi mắt thấy sắc thì tâm thấy mắt, thấy đối tượng của mắt (một vật bên ngoài), thấy sự tiếp xúc giữa mắt với sắc (cả ngoài cả trong), thấy tâm nào khởi lên nơi xúc, thấy sự sinh diệt của tâm đó v.v… vậy đâu có nhất thiết là đối tượng phải ở bên trong. Coi chừng tâm để bên trong là thiền định rồi không phải thiền tuệ đâu (ngoại tức chư duyên, nội tâm tĩnh chỉ là định), tùy thuận pháp trong ngoài (hay toàn diện) mà minh sát (vipassanà) mới gọi là tuệ quán chiếu. Phải nắm thật rõ nguyên lý mới hành, nếu không sẽ rất dễ bị lệch lạc.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Đầu tiên con xin đảnh lễ Sư, xin kính chúc Sư cùng chư Tăng tổ đình được nhiều sức khỏe, vô lượng an lạc và Phật sự viên thành! Thưa Sư, con hiện nay đang dần dần tập chánh niệm tỉnh thức trong sinh hoạt hằng ngày, sống bình thản không mong cầu, không hoài tưởng, khi làm việc gì con cũng suy nghĩ xem thiện hay bất thiện có lợi mình lợi người không, tuy nhiên khi dẫn đến hành động thì đôi khi con lại có tạo tác ngược với cái nghĩ! Xin Sư chỉ dạy thêm cho con làm sao để tập làm chủ được hành động đúng theo ý nghĩ của mình! Con cám ơn Sư.
Trong thiền Vipassanà chánh niệm tỉnh giác thuộc chánh kiến tức trực giác, không phải thuộc tư duy, lý luận, nên khi suy nghĩ tính toán ra thiện, bất thiện v.v… trước rồi mới hành động theo sau thì hành động và tư tưởng khó có thể ăn khớp nhau, làm sao gọi là chánh niệm tỉnh giác được. Chánh niệm tỉnh giác là trực tiếp khám phá thực tại như nó đang là, chứ không phải đã là hay sẽ là. Mục đích của chánh niệm tỉnh giác là trả thực tại về với bản chất thật của nó, và chỉ thấy nó như thế nào thì nó là như vậy chứ không phải ghép nó vào một khuôn khổ đạo đức nào. Đạo đức cao nhất là thấy hành động đúng với bản chất thật của nó, từ đó khám phá ra thiện ác đúng sai ngay trên bản chất thật của nó, không qua tư tưởng lý luận.
“Tập làm chủ được hành động theo ý nghĩ của mình” là thái độ ý chí của bản ngã, trong khi chánh niệm tỉnh giác thật sự là thái độ hoàn toàn vô ngã của tánh biết rỗng lặng trong sáng tự nhiên. Thiền Vipassanà chính là ngay khi buông xuống mọi nỗ lực của bản ngã ý chí thì lập tức chánh niệm tỉnh giác tự ứng một cách tự nhiên chính xác từ tánh biết lặng lẽ trong sáng và vô ngã. Hãy nắm vững nguyên lý này rồi mới nên hành, nếu không lại rơi vào quỹ đạo của bản ngã vô minh ái dục.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, năm mới con kính chúc Thầy cùng chư Tăng Ni được an lạc, tinh tấn trong tu tập. Bạch thầy, con nghĩ là thiền Vipassanà của Phật Giáo Nguyên Thủy với khán thoại đầu của Thiền Tông Trung Hoa có nhiều điểm giống nhau, nhưng con muốn hỏi là trong pháp hành thì “chánh niệm, tỉnh giác” và “khởi nghi tình” trong khán thoại đầu loại nào thù thắng hơn, mong Thầy chỉ dạy. Con kính lễ.
Mục đích của khán thoại đầu là dồn lý trí vọng thức (hữu ngã) vào ngõ cụt “bất khả tri” để tánh biết “tri bất tri thượng” (vô ngã) xuất hiện nguyên vẹn phản ánh trung thực toàn diện các pháp nên gọi là kiến tánh hay ngộ. Trong khi chánh niệm là tâm không vọng niệm, trọn vẹn với thực tại ở đây và bây giờ, nên tâm vô niệm, không lăng xăng tạo tác, rỗng lặng trong sáng, thấy rõ thực tánh pháp chân đế nên gọi là Vipassanà (minh kiến) hay thấy pháp (pháp nhãn). Đó là lý do tại sao Tổ Huệ Năng dạy lấy VÔ NIỆM để kiến tánh.
Vì tham công án là phương tiện thiện xảo đặt ra sau thời Tổ Huệ Năng nênkhông trực tiếp vô niệm mà lấy nghi tình làm “thời kỳ quá độ” để chuyển từ cái biết hữu ngãhữu niệm phân biệt của lý trí qua tánh biết vô ngã, vô niệm, vô phân biệt của tuệ giác mà hiệu ứng của nghi tình là sự bùng vỡ của ngộ. Còn chánh niệm tỉnh giác chính là vô niệm trực tiếp ứng ra từ tánh biết rỗng lặng trong sáng nên tự nó trọn vẹn với thực tánh chân đế.
Tóm lại, tham công án là phương tiện gián tiếp phải trải qua thời gian nghi tình đế kiến tánh, còn chánh niệm tỉnh giác là tự thân tánh giác thấy thực tánh chân đế không qua phương tiện nào. Tuy nhiên đó là nói chánh niệm tỉnh giác hay vô niệm đích thực thời kỳ tiền công án, còn hiện nay không ít trường phái thiền đã đưa chánh niệm tỉnh giác xuống mức độ nỗ lực tạo tác của bản ngã thì lại không bằng tham công án để loại cái ngã vọng niệm trước rồi mới thấy tánh sau, vì như vậy sẽ ít bị nguy cơ rơi vào sở đắc của bản ngã, khi chưa thực sự chánh niệm tỉnh giác.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy! Đầu thư con xin kính chúc Thầy mạnh khỏe. Thầy vui lòng cho con hỏi: Trong thư của chị Như Trung, Thầy có chú giải thêm về pháp Tạ ơn Sám hối. Con có thực hành theo, nhưng con không hiểu rõ lắm về Thầy Tổ. Xin Thầy cho con biết Thầy Tổ là những vị nào ạ?
Và trong bài giảng 8b, khóa thứ 5, có một anh Phật tử nói Thầy đã dạy rằng: “Hãy sống thật bình thường với tâm hồn cởi mở trong sáng, tĩnh tại, mà thiền Vipassanà gọi là chánh niệm, tỉnh giác…” Con muốn đọc tài liệu đó của Thầy, thì có trên mạng không ạ?
Con kính cảm ơn Thầy.
Hạnh Nhiên
Thầy Tổ nói chung là tất cả những vị thầy mà nhờ họ chúng ta nhận thức được pháp, như thầy dạy nghề, dạy chữ v.v… nhất là những vị thầy khai thị cho chúng ta thấy ra chân lý, nhờ đó chúng ta không còn si mê lầm lạc trong vô minh ái dục, sinh tử luân hồi.
Những khóa giảng thầy chưa ghi ra sách nên con tạm thời nghe trong Pháp Thoại hoặc thỉnh các đĩa giảng của thầy về nghe. Chúc con thấy ra được chánh pháp. Con có thể đọc Thực Tại Hiện Tiền và Sống Trong Thực Tại ở Thư Viện của trang Web này.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Sư, nhân dịp đầu năm, con xin kính chúc Sư luôn được dồi dào sức khỏe, vạn sự cát tường. Thưa Sư, quả vị Tu-đà-hườn có dễ chứng không ạ, khi vị đó chứng đắc thì dấu hiệu là như thế nào và vị ấy có biết không? Con xin tri ân Sư.
Không phải chỉ Đạo Quả Tu-đà-hoàn mà cả 4 bậc Thánh cũng đều có dễ có khó. Đối với người hội đủ nhân duyên thì dễ, người không hội đủ nhân duyên thì khó, chứ bản thân các quả chứng đều không khó cũng không dễ. Vị đã loại bỏ được 3 kiết sử: 1) Không còn tà kiến xem thân tâm là bản ngã, nên không còn tâm tham tương ưng với tà kiến. 2) Không còn phân vân nghi hoặc đối với thực tánh pháp nên không còn tâm si tương ưng với nghi. 3) Không còn câu nệ hình thức nghi lễ hay giới cấm nên giới tánh rất trong sạch nhưng không chấp giới tướng và các nghi lễ chế định. Vị Tu-đà-hoàn còn được gọi là “Tịnh tín bất động nơi Tam Bảo” nên Tam quy và Ngũ giới hoàn toàn trong sạch. Vị ấy thấy rõ những thực tánh pháp trên nhưng có thể không biết đó là Tu-đà-hoàn, vì đó chỉ là tên gọi mà đức Phật chế định để xác nhận trình độ chứng ngộ của hành giả chứ không phải là thực tánh pháp mà vị ấy chứng ngộ.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Mỗi dịp Tết đến, nhà con lại được khách tặng cho nhiều gà, vịt sống. Mỗi lần mẹ hay em gái nhờ con cắt tiết gà hoặc giữ chân gà để cắt tiết con đều từ chối, lý do vì thương hại con gà. Mỗi lần như thế mẹ con lại bảo “thương hại vớ vẩn” và “mấy cái việc này con trai phải làm chứ cứ để phụ nữ làm sao được”. Mẹ con không theo đạo Phật cũng không theo tôn giáo nào. Con phải cư xử hay đối đáp thế nào trong trường hợp này thưa Thầy?
Chúc Thầy năm mới mạnh khoẻ, an lạc.
Xem câu trả lời
Trước khi muốn thuyết phục người thân trong gia đình không sát sanh thì việc đầu tiên là con phải dứt khoát từ chối sát sanh để nuôi mạng và cố gằng tìm hiểu, chiêm nghiệm xem tại sao không nên sát sanh. Nếu con thuyết phục được chính mình không sát sanh với những lý do chính đáng như: tôn trọng sự sống, loại trừ lòng ích kỷ, phát triển tình thương yêu, hiểu biết luật nhân nào quả nấy, nghiệp báo trả vay, oan oan tương báo v.v… thì con sẽ biết triển khai thế nào để thuyết phục người thân không sát sanh một cách dễ dàng. Luật pháp ở một vài nước văn minh như ở Australia không cho phép người dân tự giết thú vật, trừ những cơ sở được cấp giấy phép hành nghề. Ở Úc thú vật là một trong bốn loại được tôn trọng hàng đầu cùng với cây cối, trẻ em và phụ nữ. Thật đáng buồn, trong các nước Đông Nam Á, Việt Nam mình là nước còn nhiều người săn bắn và giết chóc chim thú bừa bãi nhất, chẳng một chút thương yêu tôn trọng sự sống của muôn loài! Không tôn trọng sự sống của muôn loài là không tôn trọng sự sống của chính mình.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Nhân dịp năm mới, con xin chúc thầy một năm mạnh khỏe, an lành. Vừa rồi con có nghe khóa giảng lần 5 của thầy qua trang web, thực sự con thấy vô cùng bổ ích. Trong bài giảng thầy có nói tu là quá trình điều chỉnh nhận thức. Theo con hiểu thì có phải nhận thức đó là thấy rõ sai lầm của tâm khi chấp thân này là thân ta, suy nghĩ này là suy nghĩ của ta v.v… không ạ? Đôi lúc con thấy rõ cái nghe, cái thấy mà không có ý niệm mình đang nghe, đang thấy. Nhưng sau đó tâm lại bị cuốn hút bởi suy nghĩ khiến cho tham sân si khởi lên. Hiểu biết con còn nông cạn nên chỉ có thể mô tả như thế. Có gì sai sót xin thầy chỉ dạy cho con. Con xin cảm ơn thầy.
Xem câu trả lời
Khi thấy, nghe… rõ ràng mà không khởi lên ý niệm “ta nghe”, “ta thấy”… là rất tốt. Điều này chứng tỏ rằng không có khái niệm “ta” thì vẫn nghe, thấy… được một cách chính xác, trung thực và rõ ràng, vì lúc đó tánh biết không bị cái “ta” ngăn ngại. Khi tâm bị cuốn hút theo suy nghĩ khiến tham. sân, si khởi lên mà vẫn biết được như vậy, lại một lần nữa chứng tỏ tánh biết có khả năng phát hiện cái ta tham sân si một cách dễ dàng. Biết phát huy tác dụng của tánh biết đó để thấy thực tánh pháp gọi là thiền. Thiền là thấy biết trực tiếp không qua ý niệm nên gọi là vipassanà hay kiến tánh. Vậy đơn giản chỉ là khi tâm rỗng lặng, trong sáng thì biết là rỗng lặng trong sáng, khi tâm bị tư tưởng, ý niệm ngăn che thì biết là bị ngăn che v.v… như vậy tức là đang sử dụng tánh biết để hóa giải ảo tưởng “ta” và “của ta”. Đó chính là quá trình điều chỉnh nhận thức và hành vi vậy.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy,
Con đọc kinh sách ít, nên thấy không chắc mình hiểu đúng ý nghĩa chữ NHƯ trong cụm từ CHÂN NHƯ và VẠN PHÁP NHƯ THẬT. Thưa Thầy, có phải vì ta không thể nói “vạn pháp là thật” (vì “thật” sẽ phải đối đãi với “giả”, mà cả thật lẫn giả đều không đúng) nên phải nói là “như thật”? Và có phải NHƯ THẬT là NHƯ VẬY ĐÓ, NHƯ NÓ ĐANG LÀ không ạ? Kính xin Thầy giảng rõ giúp con chỗ này.
Trân trọng cám ơn Thầy.
Ngọc Thu
Như thật hay chân như được dịch từ yathàbhùta trong ngôn ngữ Pàli, dịch ra tiếng Anh là: As it is being, Hán dịch là “Như thị”, nên nhiều người ưa dịch ra tiếng Việt khá chính xác là “Như nó đang là” hay “Nó là như vậy”. Như thật hay chân như ám chỉ thực tánh pháp (sabhàva) hay chân nghĩa pháp (paramattha) tức bản chất thật của pháp chứ không phải là khái niệm mà chúng ta có về pháp, cho nên nói “Như nó đang là” hay “như thị” đúng hay sai còn tùy thái độ nhận thức nữa.
Xét cho cùng nghiều người vẫn còn nhầm lẫn giữa hai loại như thị (như nó đang là): Như thị tướng (that is being) và như thị tánh (what is being). Trong Pàli Abhidhamma cái gọi là như thị tướng có thể chỉ là vât (nghĩa) khái niệm bởi vì ngay khi thấy một vật gì thì chỉ mấy sát-na đầu tiên còn là như thị, nhưng sau đó khái niệm liền xen vào nên nó không còn là như thị tướng thật sự nữa mà đã trở thành vật khái niệm rồi. Chỉ khi nào thật sự chánh niệm tỉnh giác mới thấy như thị hay như nó đang là mà thôi.