Kính thưa Thầy!
Con xuất gia tu học đã lâu nhưng trong lòng con hiện nặng trĩu với chuyện gia đình. Là do mẹ con bán rượu và chị con bán cháo gà vịt, con cũng có khuyên mãi nhưng không lay chuyển được.
Con luôn cảm thấy có tội lỗi với nghiệp nhân của gia đình con. Kính xin Thầy ban bố cho con lời khuyên, con phải làm sao cho mẹ và chị con chuyển nghiệp?
Con có lòng thương yêu gia đình là tốt, nhưng tâm người xuất gia phải thấy gia đình cũng như tất cả chúng sinh. Chỉ thương yêu chứ không can thiệp. Can thiệp và khai thị là hai chuyện khác nhau. Khai thị là chỉ bày cho đối tượng thấy ra sự thật, còn can thiệp là bắt đối tượng phải làm theo ý mình. Thiền nói: “Nhập lâm bất đạp thảo, nhập thủy bất động ba” (vào rừng không đạp cỏ, xuống nước sóng không chao) là ý nói người đạt đạo tuy khai ngộ cho đời nhưng không động gì đến đời cả. Vì người đạt đạo biết rõ chúng sanh đang học chân lý qua nhân quả nghiệp báo của mình, dù làm sai xấu thì cũng chỉ có nhân quả mới có thể dạy họ thấy ra sự thật để tự điều chỉnh nhận thức và hành vi của họ mà thôi. Con muốn họ tốt ngay chẳng khác nào muốn một người đừng học đánh vần mà biết đọc ngay vậy. Tâm bổ-tát không những từ bi mà phải nhẫn nại nữa. Vậy con phải kiên nhẫn mới đủ bình tĩnh sáng suốt để chỉ bày sự thật cho những người thân.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy!
Con phân vân không biết nên tin hay không về vấn đề vong linh mượn xác. Có một em bé sáu tuổi, khoảng mười lăm ngày gần đây, thường hay có các vong linh con vật nhập vô em: có khi em bị lạnh, có khi nói lí nhí, có khi đập mạnh hai chân liên tục… Đã đưa đi khám ở BS khoa tâm thần và điều trị một năm rồi và cũng có nhờ một Thầy pháp xem và có nói rằng em không có vong nào theo cả, chỉ là bị ảo tưởng tâm thần mà thôi. Nhưng em bé ấy cứ bị như thế mãi, con thấy thật xót xa.
Kính xin Thầy có thể giải và chỉ dạy cho con phải làm sao.
Xem câu trả lờiCon vào Góc Thư Giãn để đọc bài “Cõi Vô Hình” 1&2 trong mục Suy Ngẫm thì sẽ hiểu rõ thêm về người âm.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch thầy! Hôm nay trong niềm hoan hỷ cháu Phương Nhi – con của Diệu Huệ – ra đời, con xin thành kính dâng lên thầy những cảm nghĩ và niềm an lạc mà con đã trải nghiệm được qua sự dìu dắt và dạy dỗ của thầy lâu nay.
Kính bạch Thầy! Nhờ thường thận trọng chú tâm quan sát, con đã phát hiện ra tính vô thường vô ngã của mọi hiện tượng trong mối tương giao thân – tâm – cảnh. Cái ta ảo tưởng tự khởi lên để tự tìm thấy khổ. Cái khổ đó là mong muốn sở hữu nên sinh ra tranh chấp để đạt được thừa hưởng cho riêng mình. Con đã rơi vào sinh tử trầm luân mười mấy năm qua, nay con trở về với thực tại đang là thì phiền não khổ đau cũng không còn quấy rầy nữa. Con đã cảm nhận một cái gì đó nhẹ nhàng, mới mẻ và an lạc nơi thân tâm mình. Lúc hữu sự con đã thận trọng chú tâm quan sát để điều chỉnh nhận thức và hành động cho tùy duyên thuận pháp. Đồng thời, con cũng bình thản đón nhận các pháp để thấy ra bài học chánh niệm tỉnh giác, tình nguyện giúp đỡ con cháu bằng tình thương và tâm tỉnh thức, không để rơi vào thói quen một cách vô thức hay đắm chìm trong lo âu phiền muộn, sống vị tha và trọn vẹn với chính mình nhưng không bị thời gian và ngoại cảnh chi phối. Đó là bài học nằm lòng mà con đã chiêm nghiệm hàng ngày. Và trong nièm hoan hỷ của chính bản thân và gia đình, con thành kính dâng lên thầy lòng biết ơn vô hạn.
Kính.
Con, Diệu Từ.
Xem câu trả lờiThầy rất hoan hỷ chúc mừng con. Con đã bắt đầu nhận thức đúng nguyên lý sống tùy duyên thuận pháp vô ngã vị tha. Có nhận thức đúng mới hành động đúng và thân tâm mới thật sự an lạc. Con cứ vậy mà sống chiêm nghiệm pháp đến đi thì chắc chắn sự và lý sẽ dung thông vô ngại.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Dạ thưa Sư, con ở bên Bắc Tông biết chút ít về Phật Di Đà, con đọc sách Vi Tiếu của Sư viết trong bài 51 (Vãng Sanh) trang 115, ở chỗ Lời góp ý có giải thích về Phật Di-đà và A-la-hán. Vậy trong 9 Ân Đức Phật, Ân Đức Phật thứ 6 có khác nhau với danh hiệu Phật Di-đà không?
Phật A-di-đà được Tịnh Độ Tông vận dụng làm biểu tượng cho Ân Đức của chư Phật. Tất cả chúng sanh đều có tánh giác (tánh biết rỗng lặng trong sáng) nhưng bị cái ta ảo tưởng làm cho thất niệm, tạp niệm, vọng niệm… nên mới luân hồi sinh tử phiền não khổ đau. Niệm Phật mục đích để trở về với tánh giác để soi chiếu các pháp ngay nơi thân – tâm – cảnh thì phát huy được 9 Ân Đức mà chư Phật đã toàn giác. Như vậy Phật A-di-đà tượng trưng cho cả 9 Ân Đức chứ không phải chi Ân Đức thứ 6.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy! Tối nay tâm con lại “nổi sân” một phen dữ dội. Nhưng khi đó con phát hiện ra ngay. Con ngồi lặng yên “chiêm ngưỡng xem nó thế nào”. Con thấy tâm phản kháng mạnh lắm. Con thấy rất nhiều thớ cơ trên người tự gồng lên từ lúc nào. Khi đó, ngay nơi thân con rất bứt rứt, khó chịu và thọ khổ. Con buông lỏng toàn thân và tiếp tục quan sát nữa thì lại thấy, khi đó “tâm sân” ở trạng thái “bơ vơ không nơi nương tựa” và yếu dần rồi hết. Cùng lúc tâm lắng dịu, các thớ cơ trên người con cũng buông ra như vừa tập một bài thể dục. Hơi thở từ dồn dập trở về bình thường. – Vậy thưa thầy, con vẫn băn khoăn rằng sự quan sát đó đã đúng với pháp thầy hướng dẫn chưa ạ?
– Và phải chăng Thọ trong Thân-Thọ-Tâm-Pháp là thọ ngay nơi thân ạ?
– Nếu như từng tâm thô và vi tế được phát hiện và quan sát từ đầu đến cuối, thì có được gọi là “minh bạch” chưa ạ?
Con tri ân thầy và chúc thầy khoẻ ạ!
Con quan sát như vậy là đã đúng. Thực ra khi con quan sát tâm sân thì tâm sân đã diệt rồi, lúc đó chỉ còn lại những trạng thái thân biểu hiện khi tâm sân sinh khởi, nhưng sự sinh diệt của thân vật lý chậm hơn sự sinh diêt của tâm nhiều lần nên mặc dù tâm sân đã diệt mà trạng thái thân tương ưng vẫn còn đang tiếp diễn và nguội dần để trở về trạng thái quân bình tự nhiên. Vì vậy, chỉ cần thận trọng chú tâm quan sát thì pháp hữu vi của thân tâm tự diệt, không cần phản ứng hay cố gắng tạo tác một cách hữu vi hữu ngã để xử lý. Càng lăng xăng giải quyết thì chỉ càng kéo dài thêm trạng thái sân của thân tâm mà thôi.
Nhớ là có 2 sự minh bạch: Một là thái độ tâm minh bạch, nghĩa là tâm rỗng lặng trong sáng. Hai là đối tượng minh bạch, tức là pháp như thị, không bị khái niệm, tư tưởng hay quan niệm bóp méo, chứ không cần phải rõ ràng theo hiểu biết của kiến thức.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Nam-mô A-di-đà Phật! Kính bạch thầy, mỗi lần ngồi thiền, khi con buông lỏng cơ thể, chú tâm vào hơi thở thì cơ thể con tự rung, cảm giác rất dễ chịu, nhưng con thấy kỳ quá. Có khi cơ thể tự rung rất mạnh. Kính bạch thầy chỉ cho con. Con xin cám ơn thầy.
Nếu như trạng thái rung động, nổi da ốc…, là cảm giác thoải mái nhẹ nhàng và dễ chịu thì đó là trạng thái hỷ, một trong 5 thiền chi. Như vậy là biểu hiện tâm bắt đầu đi vào định. Chỉ cần quan sát qua cảm nhận trạng thái đó mà không phản ứng chống đối hay nắm giữ thì tốt, cứ tiếp tục thì nó sẽ lắng dịu và đi vào an lạc và định xả, chứ không sao cả. Nhưng nếu trạng thái rung động đó là cảm giác khó chịu, đáng sợ, như bị khống chế hoặc như trạng thái “lên đồng” thì có 2 trường hợp: Một là trạng thái hỷ thô (pha lẫn thân trạo cử), hai là bị ảnh hường của “điển” bên ngoài. Nếu thấy như vậy thì nên xả ra, không nên tiếp tục.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Sư, tiếng Pali cũng là tiếng La-tinh đặt ra hay có từ thời của Đức Phật đặt ra? Vì sao tiếng La-tinh cũng có chữ ABC.. mà phát âm, dấu có ý nghĩa lại khác nhau?
Ngôn ngữ Pali do chính đức Phật đặt ra dựa trên một số tiếng địa phương sẵn có thời bấy giờ ở Ấn Độ để dùng làm phương tiện thuyết pháp. Đó là ngôn ngữ có văn phạm và chữ viết đầu tiên trên thế giới, 200 năm sau Bà-la-môn lại dựa trên ngôn ngữ Pali để đặt ra ngôn ngữ Sanskrit. Hai ngôn ngữ này có ảnh hưởng rất lớn đối với các ngôn ngữ về sau như tiếng Anh, tiếng Pháp v.v…
Khi người Anh sang xâm lăng Ấn Độ, đã đem Tam Tạng Pali viết bằng chữ viết cổ về Anh Quốc giao cho Hàn Lâm Viện Anh nghiên cứu và họ đã lập ra Hội Pali Text Society để chuyên nghiên cứu dịch thuật. Và để mọi người dễ đọc, họ đã dùng tiếng La-tinh để phiên âm tiếng Pali, do đó ngày nay chúng ta mới có văn bản Tam Tạng Pali bằng vần alphabet La-tinh. Do có một số âm không phiên âm bằng tiếng La-tinh được nên họ phải đặt thêm, vì vậy có những âm không đọc như tiếng La-tinh.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Khi tâm trí con muốn khởi lên việc làm ăn gì thì con thấy có nhân quả trong trí rồi. Vậy con có nên làm việc con đã dự tính hay không; hay thành ra con cứ dậm chân tại chỗ?
Nếu là một dự tính mà con thấy là tùy duyên thuận pháp vô ngã vị tha thì cứ làm. Có làm thì qua đó mới có thể điều chỉnh nhận thức và hành vi đúng tốt được. Còn nếu ngay từ đầu con đã thấy là chủ quan ích kỷ và nghịch pháp thì đừng làm. Như vậy làm sao mà dậm chân tại chỗ được, trừ phi con quá lo lắng sợ hãi vì muốn cầu toàn.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Sư!
Trước hết con rất cảm ơn Sư đã thực hiện trang web này. Con đọc qua mục “Hỏi Đáp” con đã học hỏi nhiều về Phật Pháp. Con xin hỏi Sư làm thế nào để việc tu học được tinh tấn, tâm không bị vướng bận vào những việc hằng ngày và vào người thân thương của con? Con phải làm gì để người luôn luôn ghét con không còn sân hận với con nữa, không tránh né con và làm sao con có thể làm cho người đó thân tâm an lạc, có lòng vị tha? Mỗi ngày thân tâm con rất phiền não vì sự thù ghét này. Con có thể làm thế nào cho người thân thương của con sẽ là bạn tu đồng hành? Con thành kính tri ân Sư giải đáp thắc mắc này và Cầu Chư Phật gia hộ cho Sư luôn vạn an.
Chà, con muốn quá nhiều như vậy hèn gì bất an! Nếu như con chấp nhận tất cả mọi thứ đó để học ra bài học nhận thức đùng về bản chất đời sống thì con đã nhẹ nhàng thanh thoát hơn rồi. Hãy đối diện với mọi hoàn cảnh đó mà không đòi hỏi gì cả, không phản ứng, không tạo tác, không phê phán đánh giá thì con sẽ thấy mọi sự tất nhiên là như vậy đâu có gì phải bận tâm. Đừng cầu toàn theo ý mình, vì mọi thứ đang như chính nó là. Chính sự cầu toàn của con đã làm con bất an.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy, theo như Kinh thì cả thọ và thọ uẩn đều có thể là đối tượng của pháp hành Tứ niệm xứ. Quán thọ thì nằm ở phần niệm thọ, quán thọ uẩn thì nằm ở phần quán pháp trên pháp với Ngũ Thủ Uẩn. Mà Thọ uẩn thì có thể gồm cả thọ quá khứ, thọ hiện tại và thọ tương lai… Như vậy có phải cả thọ quá khứ và thọ tương lai đều có thể là đối tượng của pháp hành Tứ niệm xứ không ạ? Và nếu không thì đối tượng “thọ uẩn” trong phần quán pháp có khác gì với đối tượng “thọ” trong phần quán thọ? Xin được Thầy chỉ giáo chỗ này ạ.
Xem câu trả lời
Câu hỏi này chỉ đáp ứng kiến thức của lý trí. Thầy chỉ hướng dẫn về thiền vipassanà thôi. Trong thiền Minh Sát, khi niệm thọ thì chỉ thấy tính chất và trạng thái thọ ngay lúc đó là thọ gì, thuộc thân hay tâm: khổ, lạc, hỷ, ưu hay xả. Còn khi niệm thọ uẩn trong niệm pháp thì thấy thọ uẩn là một phần trong chuỗi tương duyên sinh diệt cùng với các uẩn khác, nghĩa là thấy: Đây là sắc sinh, Đây là sắc diệt, Đây là thọ sinh, Đây là thọ diệt, Đây là tưởng sinh, Đây là tưởng diệt, Đây là hành sinh, Đây là hành diệt, Đây là thức sinh, Đây là thức diệt, ngay tại đây và bây giờ chứ không quá khứ vị lai gì cả.