Kính bạch thầy, vậy là con đã có duyên lành được gặp thầy ở nhà bà Mỹ Thọ và chùa Linh Thông trong dịp thầy ra giảng pháp tại Hà Nội vừa qua. Gặp thầy trong đầu con có rất nhiều điều muốn hỏi, nhưng khi nghe thầy giảng con chỉ muốn lắng nghe, vì những điều thầy giảng thật dễ lãnh hội, thầy dùng những phương tiện ngôn ngữ, ví dụ thật đơn giản cho Phật tử chúng con dễ hiểu, dễ nắm bắt nhất. Con xin tri ân thầy.
Bạch thầy, hàng ngày con chánh niệm tỉnh giác thì tâm con trong trạng thái an lạc, vậy bây giờ con phải tu tập thế nào để tiến thêm nữa ạ? Kính mong thầy bi mẫn chỉ dẫn cho con. Thành kính đảnh lễ thầy.
Tinh tấn chánh niệm tỉnh giác thì có thể được an lạc nhưng không phải vì mục đích an lạc. Tinh tấn là không buông lung phóng dật theo ý đồ của cái ta ảo tường, do đó tâm trở về với thực tại hiện tiền, tâm như vậy gọi là chánh niệm. Tâm không thất niệm theo vọng tưởng của bản ngã, không bị tạp niệm che lấp nên rỗng lặng trong sáng thấy rõ các pháp, như vậy gọi là tỉnh giác. Tinh tấn chánh niệm tỉnh giác một mặt giúp tâm thanh tịnh, mặt khác giúp tâm phát hiện cái ta ảo tưởng, đồng thời thấy ra thực tánh của pháp. Hai mặt này được đức Phật gọi là hai Thắng Đế (hai sự thật siêu việt), đó là “Nội tâm thanh tịnh và thấy rõ pháp tánh”. Thiền Đông Độ cũng nêu lên hai yếu tốkhông thể thiếu trong kiến tánh là tịch và chiếu.
Có một vị Tỳ Kheo đã nói rằng chỉ thực hành chánh niệm tỉnh giác không thôi thì quá ít. Đức Phật dạy chớ có nói vậy,chánh niệm tỉnh giác là đã thực hành rất nhiều, và Ngài còn nói đó là con đường duy nhất đưa đến Niết-bàn. Niết-bàn là buông hết bản ngã tham sân si, tức buông cái ảo tưởng dính mắc trong ngã và pháp, sống không nương tựa (Anissito viharati), không chấp trước điều gì trên đời (Na kiñci loke upādiyati). Nếu con đã đạt được tới đó thì đâu cần thêm gì nữa, còn nếu chưa được như vậy thì vẫn còn phải tiếp tục chánh niệm tỉnh giác chứ không cần thêm gì nữa cả. Nếu phân tích kỹ con sẽ thấy trong tinh tấn chánh niệm tỉnh giác đã bao hàm Bát Chánh Đạo, Giới Định Tuệ và 10 pháp Ba-la-mật. Như vậy đúng là đã hành rất nhiều.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch thầy, có lần con sân quá đến nối bị ép tim, khó thở, không ngủ được. Con tự nhốt mình trong phòng mục đích để tránh né đối tượng nhưng khổ nỗi là thân thì ở trong phòng mà tâm thì thấy đối tượng dễ sân thêm. Kéo dài gần nửa đêm tự nhiên con suy nghĩ, sắc pháp mình tệ như thế này rồi mà còn sân nữa thì xấu sao chịu nổi. Ngay tức thì con buông xả ra, lập tức thân tâm khỏe lại, tuy nhiên còn trạo cử và con buông ra tiếp cho đến lúc ngủ hồi nào không biết. Sau lần đó, mỗi khi sân, tâm con cứ nhắc nhở, sân là sắc pháp xấu lắm nha! Con tu như vậy có lạ quá không, xin thầy cho con lời khuyên. Thành kính tri ân thầy.
Xem câu trả lời
Thầy đã nói rồi, đó là lợi ích tỉnh giác. Do con thấy một lợi ích nào đó mà tỉnh giác, nên mới buông được. Bước đầu như vậy là tốt, không có gì sai cả. Con càng thấy ra sự tai hại của cái ta lăng xăng phê phán, can thiệp, phản ứng, tạo tác… bao nhiêu thì con càng dễ buông nó bấy nhiêu. Ít nhất là con cũng bắt đầu thấy được lợi ích của buông là thế nào và thế nào là buông. Thầy nhắc lại một lần nữa: buông là buông thái độ chứ không phải buông trạng thái, nhưng khi đã buông thái độ thì trạng thái cũng tự buông luôn. Điều này rất rõ trong trường hợp của con: Không cần buông trạng thái ép tim, khó thở, mất ngủ và ngay cả thái độ sân đã biến thành trạng thái sân, mà chỉ cần không thêm thái độ tạo tác nào nữa (dù là cố gắng tu chỉnh)tức là buông chứ không có gì để buông cả. Vậy mà con thấy đó, tất cả trạng thái ép tim, khó thở, mất ngủ, và cả trạng thái sân nữa cũng đều tự biến mất chẳng cần một chút dụng công nào cả, đúng không? Vậy là con bắt đầu biết pháp tu buông cái ta ảo tưởng để sống tùy duyên thuận pháp vô ngã vị tha rồi đó.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy, vậy là con đã được gặp Thầy. Con thấy mình thật may mắn vì con có ba câu hỏi trong đầu định đến hỏi thầy nhưng con chưa cất tiếng hỏi thì Thầy đã ân cần trả lời cả ba câu hỏi đó ngay khi lần đầu gặp Thầy ở nhà chị Trang hai tối 24 và 25/5/2011. Rồi con được ngồi nghe Thầy giảng ở chùa Linh Thông và chùa Hòe Nhai nữa.
Có lúc nghe Thầy giảng con thấy rất cảm động mặc dù từ Thầy chỉ toát ra những hành động và lời nói rất giản dị. Con chú ý thấy Thầy ho nhiều trong sáng nay và sáng qua. Con cũng chú ý thấy con tham lam muốn ngồi nghe Thầy giảng tất cả các buổi và muốn hỏi Thầy thật nhiều. Con chợt hiểu ra tham nghe Pháp cũng vẫn là tham. Vậy nên tối nay con chọn cách viết thư để lúc nào Thầy rảnh Thầy đọc những dòng này con viết để cảm ơn Thầy và xin Thầy tha thứ cho sự tham lam nghe Pháp của chúng con, đồng thời con xin Thầy hãy chú ý giữ sức khỏe. Thầy làm việc quá sức rồi.
Con xin phép được cảm ơn Thầy vì tất cả những gì Thầy đã từ bi chỉ dạy cho chúng con trong những ngày Thầy tới Hà Nội.
1) Thầy cũng rất hoan hỷ khi nghe con nói như vậy. Điều này chứng minh rằng tánh biết có cách biết mà ý thức không biết được. Ý thức cần có đối tượng, mà phần lớn đối tượng là cái đã biết (pháp trần), nên khi con chưa đặt câu hỏi làm sao thầy biết bằng ý thức được, thế mà tâm vẫn cảm nhận được tâm theo cách riêng của nó. Tánh biết có một tầm hoạt động rộng lớn vô cùng so với những gì nhãn thức, nhĩ thức… và ý thức có thể biết được một cách hữu hạn. Đó là lý do vì sao Lão Tử nói “Tri bất tri thượng” tức là biết mà không cần ý thức mới là biết tối thượng. Trong Phật giáo, tánh biết thể hiện qua rất nhiều mức độ nhận thức khác nhau: Liễu tri, tuệ tri, thắng tri, thức tri, tưởng tri, giác tri.
– Giác tri là cái biết mang tính bản năng sơ khởi của các giác quan tiếp xúc với đối tượng (xúc) và những cảm giác thu nhận được (thọ). Cái biết thực vật tuy rất đơn sơ nhưng cũng là dạng biết này..
– Tưởng tri là cái biết qua ý niệm, ý tượng hay khái niệm. (Lưu ý: tưởng tượng và hồi tưởng phát xuất từ tưởng tri nhưng đã bước qua lĩnh vực thức tri).
– Thức tri là cái biết qua kiến thức có được từ kinh nghiệm của 6 thức và từ những thông tin góp nhặt, vay mượn bên ngoài. Đây chính là hoạt động của lý trí chỉ hữu ích trong lĩnh vực tục đế (chân lý quy ước của thế gian).
– Thắng tri là cái biết qua một trình độ tâm thức cao hơn như thiền định, thần thông… Thắng tri đôi lúc được dùng theo nghĩa tuệ tri hoặc liễu tri, khi đó là thắng tri của bậc Thánh.
– Tuệ tri là khả năng nhận thức trực tiếp trung thực của tánh biết. Khi thận trọng, chú tâm, quan sát hoặc tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác đạt được đối tượng thực tánh pháp thì tánh biết thể hiện dưới dạng tuệ tri.
– Liễu tri là khả năng sáng suốt, định tĩnh, trong lành tự nhiên của tánh biết không còn bị ngăn ngại bởi cái ta tư tưởng nên hoàn toàn vô ngã vô vi. Đây là tánh biết thể hiện nơi các bậc Thánh.
2) Con phải khám phá ra sự khác biệt giữa nhu cầu học pháp với tâm tham pháp. Tham pháp là mong muốn sở hữu và tích lũy thêm số lượng kiến thức nhiều hơn, còn nhu cầu học pháp là mở rộng tầm nhìn để nhận thức sự thật đúng hơn, không bị giới hạn trong tư tưởng, quan niệm, kiến thức và kinh nghiệm hạn hẹp. Vậy nhu cầu học pháp là cần thiết chứ không phải là tham pháp.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con kính lời vấn an Thầy. Thưa Thầy, trong cuộc sống hàng ngày: làm việc, tập thể dục, liên lạc bạn bè… có là những hành vi do bản ngã tạo tác hay không? Nếu không thì những việc đó gọi là gì?
Chồng, con trong gia đình hành xử ích kỷ và vô minh thì làm sao có thể thấy như thấy, nghe như nghe, tùy duyên thuận pháp?
Mong Thầy chỉ giáo.
Đó chính là những thách thức mà pháp đến để trắc nghiệm thái độ thấy biết của con. Nếu thái độ của con xuất phát từ cái ta ảo tưởng thì bằng mọi cách pháp sẽ đưa ra những chướng ngại để phá vỡ nó. Cách dễ nhận ra nhất là khi nào con thấy còn chướng ngại, còn phiền não tức còn cái ta ảo tưởng, còn kẻ gieo nhân gặt quả. Vậy chỉ cần con biết thận trọng chú tâm lắng nghe quan sát tất cả mọi tình huống đến đi mà con đang trải nghiệm trong đời sống thì con sẽ giác ngộ đâu là thực tánh pháp đâu là cái ta ảo tưởng ngay thôi. Khi con thấy được đâu là pháp đâu là ngã con sẽ không buông lung phóng dật theo ảo tưởng ảo giác của cái ta, đó gọi là TINH TẤN. Không buông lung phóng dật thì tâm trở về trọn vẹn với thực tại, đó gọi là CHÁNH NIỆM. Lúc đó tánh biết không bị ý niệm, tư tưởng, quan niệm của cái ta ảo tưởng che lấp nên thấy biết trong sáng và trung thực, đó gọi là TỈNH GIÁC. Tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác chính là sống thuận pháp không thuận ngã vậy.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, con đọc đi đọc lại quyển Thực Tại Hiện Tiền của thầy giảng do Ban Hoằng Pháp (sư Đức Minh) ở Pháp ấn tống để hướng dẫn con đường tu học. Trong cuốn sách này thầy có nhắc đến môn Vi Diệu Pháp và Duy Thức, con mong được học hỏi, xin thầy chỉ cho cách tìm để có những bài giảng về môn học này.
Kính bái. Trinh Long Hai.
Xem câu trả lời
Về môn Vi Diệu Pháp, bước đầu đạo hữu có thể tìm đọc cuốn Thắng Pháp Tập Yếu Luận (Abhidhammattha Sangaha) của Luận sư Anuruddha do Hòa thượng Thích Minh Châu dịch và chú giải. Sau đó, nếu muốn tìm hiểu sâu thêm thì đạo hữu vào trang web BuddhaSasana sẽ có đầy đủ tài liệu về Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma Pitaka) này. Còn về Duy Thức Học, đạo hữu có thể tìm hiểu trước trong Duy Thức Học Nhập Môn, sau đó vào Duy Thức Học trọn bộ để tìm hiểu sâu hơn. Nói chung, Vi Diệu Pháp và Duy Thức Học đều có thể xem là môn Tâm Lý Học của Phật Giáo. Thầy có dự định viết một cuốn sách so sánh Vi Diệu Pháp của Nguyên Thủy và Duy Thức Học của Đại Thừa, hy vọng sắp tới sẽ có thời gian để hoàn thành. Chúc đạo hữu tìm được những gì cần thiết cho việc tu học của mình.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kinh bạch thầy!
Con được biết tháng 9 này chùa mình có Lễ Dâng Y Kathina. Con rất muốn cúng dường chư Tăng để xin hồi hướng phước báu cho ba con đã mất cũng vào tháng 9, vậy chúng con phải làm sao, có cần phải qua thủ tục gì không thưa thầy? Con xin cám ơn thầy.
Xem câu trả lời
Tham dự Lễ Dâng Y Kathina không cần phải có gì gọi là thủ tục cả. Thường có một thí chủ chính hay nhiều thí chủ cùng hùn phước vào buổi lễ Dâng Y, ngoài ra, tất cả Phật tử đều có thể đến tham dự buổi lễ. Con có thể sắm một ít tứ vật dụng làm vật phẩm cúng dường hay đến bàn hùn phước tùy theo khả năng của mình. Phước báu tùy ở tâm chứ không phải nơi vật phẩm. Và tất nhiên con có thể hồi hướng phước báu này đến thân bằng quyến thuộc đã quá vãng cũng như còn tại tiền của con.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy, con là một Phật tử thường xuyên và có nhiều thời gian thân cận với Tăng giới. Có nhiều điều con được biết, nói đúng hơn là vô tình mà con được biết khiến con dần mất đức tin vào Tăng chúng hiện nay. Nay con được bạn bè giới thiệu webside này. Phật giáo Nguyên Thủy còn khá lạ lẫm đối với con; tuy nhiên khi đọc qua phần Hỏi đáp Phật Pháp này, con thấy Thầy trả lời rất hay, thực tế và gần gũi. Con mạo muội xin hỏi thầy một vấn đề mà con băn khoăn như sau: Vị tỳ kheo, sa di, phạm giới hành dâm; Phật tử đã thọ quy giới và một người thường phạm tội tà dâm thì xét theo phương diện nhân quả và giới luật của nhà Phật tính chất và quả báo có khác nhau không? Có gì thất lễ xin thầy hoan hỷ! Thành kính đảnh lễ thầy!
Giới luật rất vi tế. Tuy giới luật áp dụng cho hành động thân khẩu nhưng tội nặng nhẹ lại tùy vào mức độ cố ý sai phạm của tâm và hậu quả mà sự sai phạm ấy gây ra. Bất luận là Tăng, Ni, cư sĩ tại gia hay người thường cũng đều xét trên hai phương diện đó. Về tính chất tội của sự sai phạm giới luật thì hoàn toàn bình đẳng đối với mọi người, nhưng người xuất gia còn cộng thêm tội sống nhờ đàn-na mà làm cho đàn-na mất đức tin nữa. Ngoài ra có một số nguyên tắc cần lưu ý là dù cùng một hành vi sai phạm giống nhau tội vẫn khác nhau:
– Người biết rõ sự sai phạm ít tội hơn người biết ít hoặc không biết mình sai phạm. Vì người không biết mình sai phạm sẽ không biết dừng lại sai phạm của mình.
– Người nhận tội và sám hối ít tội hơn người không nhận tội và không sám hối.
– Người có đạo đức, đức tin, trí tuệ… nhiều ít tội hơn người có ít hoăc không có đạo đức v.v…
– Người phước lớn ít tội hơn người kém phước, vân vân và vân vân.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Sư, con đã có đi học thiền Tứ niệm xứ. Con xin hỏi Sư một số vấn đề con đã trải qua trong quá trình học và thực hành ở nhà để xem sự tu học của con có đúng không vì tu tập là rất quan trọng, nó liên quan đến vấn đề sinh tử, mong Sư từ bi chỉ giúp cho con:
Thỉnh thoảng con ngồi theo dõi sự phồng xẹp khi hơi thở ra vô, ngoài ra những ý nghĩ, tư tưởng khởi lên và mất đi đều được ghi nhận. Đôi lúc trong tâm tưởng của con thường hiện ra giống như mây khói xám khởi lên. Cùng lúc ấy, Tính biết thấy đây là vô thường. Những hiện tượng như vậy thường có rồi mất. Rồi trong khi ngồi nếu có những cảm thọ khởi lên như rởn gai, lúc ấy Tính biết biết rõ là vô thường. Tâm con hoàn toàn không yêu thích hay ghét bỏ và chỉ nhìn nhận nó như thế nào trung thực từ lúc khởi cho đến lúc mất. Nhưng có đôi khi con ngồi lâu thì cảm giác tê mỏi nơi bàn chân khởi lên mạnh thì những hiện tượng trên không có và nó được thay thế bởi thọ khổ này. Khi ấy sự chú Tâm của con hoàn toàn không dời xa khổ thọ này và sự ghi nhận về khổ thọ này rất rõ cho đến khi xả. Ngày trước mỗi khi có nỗi buồn trong Tâm, con thường hay trốn tránh tìm điều gì để khỏa lấp, nhưng thời gian gần đây tự nhiên Tâm con không vậy nữa, nó muốn nhìn mọi tư tưởng bực bội, sân hận, tham ái… từ lúc khởi lên cho đến mất đi. Và có 1 số điều con không biết tả như thế nào cho đúng, ví dụ: 1 cảm giác bực bội nơi Tâm khởi lên thì ở ngay nơi thân cũng có điều gì đó kỳ kỳ khó chịu. Tất cả những điều này đều được ghi nhận. Và con thấy chính sự ghi nhận này làm cho những bực bội mau lắng dịu. Con nghe nói lạc thiền là rất nguy hại nên con viết lên những gì con đang trải qua mong Sư chỉ giùm con.
Xem câu trả lời
Khởi đầu con tu tập như vậy là rất tốt. Những điều con trải nghiệm đều không có gì sai. Con cứ tiếp tục như vậy rồi tự con sẽ khám phá ra dần và tính biết sẽ giúp con tự động điều chỉnh những chỗ còn chưa tự nhiên. Con nhớ là chánh niệm tỉnh giác càng tự nhiên càng tốt, đừng cố gắng một cách chủ quan. Phần lớn sai lầm ở chỗ tinh tấn không đúng. Tinh tấn quá chỉ tạo ra tình trạng căng thẳng, làm mất đi sự rỗng lặng, trong sáng tự nhiên của tâm, lúc đó tánh biết sẽ bị ý chí chủ quan của cái ta ảo tưởng che lấp, không thể thấy được thực tánh pháp. Nếu có trở ngại nào nên đến gặp thầy để thầy hướng dẫn cụ thể hơn.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch thầy! Năm nay con 37 tuổi, đã có gia đình và 2 con, nhưng trong tâm con thường mong muốn được xuất gia (tại Huyền Không Sơn Thượng hoặc chùa Bửu Long). Vậy con cần có thủ tục gì và có được ở đó tu tập không? Kính mong thầy từ bi hướng dẫn. Con xin cám ơn thầy.
Xem câu trả lời
Trước hết con phải được gia đình chấp thuận, bởi vì bây giờ con đang có trách nhiệm với chồng và các con nhỏ. Nếu con được sự hoan hỷ chấp thuận của gia đình (chồng, con hoặc cha mẹ chồng) thì con cứ vào chùa xin tu. Còn việc con có được chùa chấp nhận hay không còn tùy vào việc con có tu được hay không nữa. Ví dụ như có phẩm chất đạo đức, có phong thái thích hợp với người xuất gia, có quyết tâm tu tập, có khả năng thích nghi với sinh hoạt tu viện v.v… Con nên tìm hiểu thật kỹ trước khi quyết định xin xuất gia.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy, vừa rồi con có may mắn được tham dự khóa thiền mà thầy dạy cho chúng con tại chùa Tam Bảo, Đà Nẵng. Con rất biết ơn thầy đã khai sáng, chỉ bày cho chúng con một cách thiết thực, đơn giản, những ai hành sẽ thấy kết quả rất mầu nhiệm. Nhưng trong lúc hành thiền con không thể dùng tánh biết quan sát sự chuyển động của tâm được vì nếu con hoàn toàn với cái biết là mình đang ngồi và hít thở thì tạp niệm không có, được một lúc tạp niệm khởi lên thì tánh biết lại biến mất. Vì sao con không thể biết là mình đang vọng động mà vọng động rồi con mới biết vậy thầy? Trong lúc thiền thì 6 căn không tiếp xúc với 6 trần, vậy làm sao con có sự phòng hộ được? Có hôm cả buổi thiền con chỉ thấy toàn là tạp niệm lăng xăng chứ tâm không an ổn vắng lặng được, như vậy là buổi thiền đó không có kết quả phải không thầy? Kính xin thầy chỉ dạy cho con. Con xin cám ơn thầy và chúc thầy luôn khỏe để làm Phật sự và dìu dắt chúng con.
Thực ra con vẫn chưa nhận ra được tánh biết. Con đang sử dụng cái biết của ý thức trong 6 thức, do đó con chỉ biết đối tượng của ý thức chứ không biết hoạt động của tâm ý. Tánh biết thì biết được cả 18 giới (6 căn + 6 trần + 6 thức), nghĩa là biết luôn cả sự tương giao vận hành của ý – pháp – ý thức. Có thể tạp niệm khởi lên con không ý thức được nhưng tánh biết vẫn biết, chứ không phải tánh biết biến mất như con tưởng, nếu biến mất con làm sao biết có tạp niệm khởi lên? Làm sao đức Phật lại dạy niệm tâm? Làm sao có tuệ thấy biết danh sắc? (trong đó danh chính là mọi hoạt động thuộc về tâm và tâm sở).
Con nói “Trong lúc thiền thì 6 căn không tiếp xúc với 6 trần” đó là con đang hành thiền định chứ không phải thiền thấy pháp thầy đang hướng dẫn. Con nên vào trang web của thầy đọc thêm và nghe pháp thoại thật kỹ, đừng hành theo thói quen sẽ khó điều chỉnh lại được. Thầy đã nói tâm thiền là tánh biết sáng suốt định tĩnh trong lành trong sự tương giao giữa 6 căn 6 trần, chính vì vậy mới thấy được cả 18 giới, đó chính là sự phòng hộ lục căn đúng đắn và hiệu quả nhất, chứ không phải kìm giữ các căn. Phật dạy thấy như thực, nghe như thực, xúc như thực, biết như thực thì làm sao lại không để 6 căn tiếp xúc với 6 trần được!
Con nói: “Có hôm cả buổi thiền con chỉ thấy toàn là tạp niệm lăng xăng chứ tâm không an ổn vắng lặng được”. Vậy cái gì thấy tạp niệm lăng xăng? Cái gì biết tâm không vắng lặng? Nếu con nói “con không biết mình đang vọng động mà vọng động rồi mới biết” thìđó là con nói không ý thức được chứ không phải tánh biết không biết, bởi vì nếu tánh biết không biết thì khi con có ý thức trở lại con cũng không biết vừa rồi có vọng đọng hay không vọng động, và làm sao con biết mình không biết (theo nghĩa ý thức)? Vậy tánh biết sáng suốt định tĩnh trong lành có thể biết được vọng động, biết được lúc con ý thức biến mất, phải vậy không?
Thiền con đang hành là thiền định nên con mới mong an ổn vắng lặng. Thiền thầy dạy là khi an ổn vắng lặng thấy an ổn vắng lặng, khi không an ổn vắng lặng thấy không an ổn vắng lặng, chứ không phải thiền để mong đạt được trạng thái an ổn vắng lặng, vì mọi trạng thái duyên khởi đều vô thường, khổ, vô ngã thì đạt đến làm gi? Hơn nữa mong cầu đạt được an ổn là tham, và mong cầu chấm dứt bất an là sân. Khi không có tham sân si thì tánh biết tự hiển lộ và soi sáng, (khi có tham sân si con chỉ theo tham sân si mà quên tánh biết chứ không phải tánh biết biến mất). Con đừng cố gắng “hành thiền” theo ý đồ của cái ta ảo tưởng. Tâm thiền chính là buông mọi ảo tưởng của cái ta để tánh biết tự soi sáng thực tại hiện tiền, dù đó là thân, thọ, tâm hay pháp. Dù đó là trạng thái vọng động hay an ổn thì tâm thiền (tánh biết) vẫn chỉ thấy thực tánh như nó đang là không thêm không bớt gì cả.