Kính thưa Thầy, con xin có 3 câu hỏi:
1. Thầy có dạy rằng trong Thiền tuệ chỉ cần sát-na định thôi. Con chưa hiểu rõ thế nào là sát-na định và làm thế nào để có sát-na định trong lúc thiền tập?
2. Lúc ngồi Thiền con có thể lấy oai nghi ngồi làm đối tượng thiền tuệ được không, thưa Thầy?
3. Cách đây hơn 10 năm, vào một buổi tối, sau khi mở cửa vào nhà (lúc đó nhà con vừa mới xây xong và gia đình con dọn về ở vài tuần; hiện nay con không còn ở trong căn nhà ấy nữa), mở đèn lên con bỗng thấy có 1 con rắn con (dài khoảng 2 tấc) nằm khoanh tròn ngay giữa nhà, hốt hoảng con lấy dép đập nó chết ngay. Giết nó xong con mới thấy hối hận. Việc này vẫn còn ám ảnh con và thỉnh thoảng con vẫn nhớ lại. Sau này con tu Thiền, nghe Thầy giảng pháp, hiểu biết về luật nhân quả nghiệp báo, về tâm cận tử v.v… trong thời gian gần đây con nhớ lại việc này thường xuyên hơn, ngay cả khi đang ngồi thiền. Con vẫn nguyện rằng xin con được sáng suốt để không tạo ác nghiệp mới và sẵn sàng trả ác nghiệp đã tạo trong quá khứ; sau khi ngồi Thiền xong con cũng hồi hướng công đức đến con rắn kia và cầu mong nó thoát khỏi cảnh khổ, được hưởng an lạc lâu dài. Xin Thầy chỉ dạy con phải làm gì để tâm con không bị việc này ám ảnh.
Con xin cảm ơn Thầy.
Xem câu trả lời
1) Chỉ cần buông cái ta lý trí dính mắc trong thời gian thì tâm liền trở về với thực tại, đó là chánh niệm. Khi chánh niệm sát-na định liền có mặt, không cần làm gì để có nó, vì nó đến tự nhiên khi tâm rỗng lặng trong sáng – chánh niệm tỉnh giác.
2) Bốn oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm đều có thể lấy trạng thái hay tư thế của nó làm đối tượng cho chánh niệm tỉnh giác được cả.
3) Thầy có giới thiệu pháp tạ ơn sám hối trong mục Hỏi Đáp và trong Thư Thầy Trò ở mục Thư Viện. Ngoài ra, việc hồi hướng công đức cho nó và rải tâm từ đến loài rắn như vậy là được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch thầy. Nhà con ở tận miền Trung, con đã có duyên gặp thầy vào năm ngoái, nhưng lúc đó con không có điều kiện để học hỏi cụ thể phương pháp hành thiền ở thầy. Tuy vậy hàng ngày con vẫn lên mạng vào mục Hỏi Đáp để đọc. Hôm nay con xin được hỏi thầy về bản ngã ở nơi con.
1. Hàng ngày con luôn chánh niệm và thấy bản ngã sanh khởi rồi diệt, tuy vậy nó lại vẫn xuất hiện và con chỉ quan sát nó. Nhưng có một điều con chỉ muốn ăn chay, cái muốn này do con thấy quá thương với các loài vật mỗi khi thấy người ta giết, hành hạ chúng và tự hỏi sao con người ác độc quá, con không chấp nhận đối xử với chúng như vậy. Xuất phát từ đó mà con chỉ ăn chay để cảnh tỉnh mọi người. Như vậy việc ăn chay đó có do bản ngã sai khiến hay không, kính mong thầy chỉ bảo.
2. Có người hỏi con, vì sao hệ phái Nam Tông ăn mặn và có phải chưa có lòng từ bi, sự công bằng đối với loài vật, con đã giải thích nhưng họ không chấp nhận.
Con kính mong thầy giải đáp. Con xin chúc thầy mạnh khỏe.
Thầy chỉ có thể giúp con biết tự mình thấy ra sự thật chứ không giúp con đưa ra một kết luận nào. Bởi vì muốn khẳng định một kết luận là gốc rễ của vô minh (Tri kiến lập tri tức vô minh bổn). Người thật sự chánh niệm tỉnh giác tất phải thấy mọi sự mọi vật luôn luôn mới mẻ nên họ không bao giờ ôm giữ bất cứ một kết luận nào. Con cho rằng tất cả những người theo PG Nam Tông đều ăn mặn và tất cả những người theo Bắc Tông đều ăn chay sao? Vậy là con đã vội kết luận rồi đó. Một khi đã khẳng định một kết luận là vô minh rồi nên tất nhiên đó chỉ là ảo tưởng của bản ngã. Cho đến khi chưa thành Phật thì vấn đề con đưa ra đòi hỏi con phải khám phá tận tường cho ra sự thật, nếu không con chỉ mãi mãi ôm giữ những kết luận vu vơ theo cảm tính hoặc lý trí vọng thức mà thôi. Đó là lý do vì sao thầy không giúp con khẳng định một kết luận nào.
Vì mọi khẳng định đều đưa đến kết luận một chiều và rơi vào kiến chấp nhị nguyên, nên đức Phật nói pháp chỉ tùy duyên mà khai thị chứ không khẳng định một chiều. Vậy muốn thấy sự thật con nên thấy ra nhiều mặt, nhiều chiều và từ nhiều góc độ khác nhau, nên biết tự mình phản biện, chứ không nên vội kết luận điều gì đúng hay sai theo kiến thức hạn hẹp của mình. Khi có cái nhìn bất nhị, toàn diện, con sẽ không còn cái tâm chấp trước, bảo thủ và phân biệt nhị nguyên để đưa đến ngã mạn, đối kháng và tự tán hủy tha nữa. Tinh thần thiền để khám phá sự thật là “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” mà đức Phật gọi là sống “không nương tựa, không chấp trước điều gì trên đời”.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Sư, trong lộ trình tâm con hay nghe nói “nếu nó (nhân gây ra qua thân khẩu hoặc ý) lọt vào đổng tốc đầu thì quả trổ sanh trong kiếp hiện tại”. Câu hỏi của con là tại sao lọt vào đổng tốc đầu và trong khi đó những đổng tốc khác thì sao? Và khi quả trổ sanh trong kiếp này là xong, những kiếp sau sẽ không trổ nữa hay sao ạ?
Con kính tri ân Sư!
Những vấn đề trong Phật học muốn được thông suốt thì con phải tự mình nghiên cứu, nghiền ngẫm, chiêm nghiệm thì mới khám phá ra một cách hứng thú. Nếu thầy nói ra hết thì còn đâu sự hứng thú để con khám phá sự thật, trong khi con chỉ cần tư duy sâu sắc hơn một chút là con có thể hiểu ngay. Nhưng hiểu biết trên pháp học vẫn chưa đủ, tất cả sự thật đều có đầy đủ trong chính con ngay nơi thực tại hiện tiền – tại đây và bây giờ – vì vậy con cần khám phá sự thật trên chính nó (opanayiko) để mỗi người tự mình thấy biết (paccattam veditabbo vinnùhi). Đừng vội tin vào giải thích của ai khác. Chính đức Phật đã cảnh báo điều này trong kinh Kalama.
Hơn nữa, có những tìm cầu hiểu biết từ bên ngoài chỉ để thỏa mãn sự tò mò của lý trí, mà lý trí luôn đi kèm với nghi hoặc, nên nó chỉ làm cho vấn đề phức tạp hơn, không bao giờ thấy ra sự thật. Phần lớn những giải đáp từ bên ngoài tạo cho con ảo tưởng đã hiểu biết, điều này ngăn cản sự khám phá qua trải nghiệm tự thân, do đó chỉ làm cho con xa sự thật thêm thôi, không giúp con thấy ra được nó. Đó là lý do tại sao thầy chỉ tư vấn về mặt thể nghiệm pháp chứ không giải đáp những thắc mắc mang tính kiến thức của lý trí về pháp.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy, chiều nay con dự buổi học thiền đầu tiên của khóa 7, con nhớ Thầy có giảng là chính cái bản ngã, cái “ta” ảo tưởng đưa đến luân hồi sinh tử. Theo hiểu biết còn nông cạn của con thì với luân hồi sinh tử, tự thân mọi sự vật, hiện tượng đều như thế. Cho nên khi nghe Thầy giảng như vậy, con thắc mắc là có cần phải có cái “ta” xuất hiện thì mới dẫn đến luân hồi sinh tử không? Con hiểu như vậy không đúng ở chổ nào mong Thầy chỉ dẫn cho con!
Con cảm ơn Thầy!
Vấn đề ở chỗ là con hiểu luân hồi sinh tử thế nào? Khi đức Phật bẻ gãy mọi tạo tác của “người thợ làm nhà” – ám chỉ cái ta ảo tưởng, thì đồng thời Ngài cũng thoát khỏi luân hồi sinh tử, nói cách khác là thập nhị nhân duyên diệt. Cái ta ảo tưởng luôn tạo tác để trở thành, theo Thập nhị duyên khởi thì tạo tác để trở thành chính là Hữu, nhân đưa đến sinh – lão tử và sầu, bi, khổ, ưu, não. Sinh – lão tử và sầu, bi, khổ, ưu, não chính là luân hồi sinh tử. Đức Phật và chư vị Alahán đã không còn cái ta ảo tường nên cũng không còn luân hồi sinh tử. Nếu không có cái ta xuất hiện thì chỉ có pháp vận hành tự nhiên làm gì có ai để luân hồi sinh tử?
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy con xin được hỏi về điều này, con thấy ngoài đời các bạn trẻ tiến tới hôn nhân xây dựng gia đình thường xem tuổi coi có hợp hay xung khắc không… Theo con hiểu thì một góc độ nào đấy điều này cũng đúng một phần nhưng cũng không biết là điều này có nên và quan trọng quá không?
Con xin được thầy chỉ giúp về câu hỏi hơi buồn cười này của con. Con tin ở thầy nhiều.
Con xin thành kính tri ân tới thầy và chúc thầy mạnh khỏe .
Xem câu trả lời
Nếu thầy nhớ không lầm thì thầy đã trả lời câu hỏi này một lần rồi trong mục hỏi đáp này. Đại khái là năm tháng ngày giờ tốt xấu thì cũng có nhưng không hẳn quyết định toàn bộ vấn đề của cuộc sống. Nó có thể tốt với người này không tốt với người kia, có thể tốt về mặt này nhưng lại xấu về mặt khác, vì trong cái rủi có cái may, trong cái may có cái rủi, nên Lão Tử đã nói: “Họa hề phúc chi sở ỷ, phúc hề họa chi sở phục”. Người xưa cũng có lý khi nói “Người tính không bằng trời tính”. Trời tính đây là sự vận hành của pháp thuận theo tự nhiên, không theo ý riêng của mỗi người. Hoặc “Bôn ba chẳng qua thời vận”. Thời vận tức là duyên nghiệp của mỗi người. Nghiệp có nghiệp quả nghiêp nhân. Có thay đổi thì thay đổi thái độ tạo nhân chứ không cần thay đổi kết quả. Do đó khi được hỏi về ngày tốt xấu, đức Phật dạy: “Ngày giờ nào tạo nghiệp thiện (hành động, nói năng, suy nghĩ đúng tốt) là ngày giờ tốt, ngày giờ nào tạo nghiệp bất thiện (hành động, nói năng, suy nghĩ xấu ác) là ngày xấu”. Tóm lại, không nên quá lệ thuộc vào ngày giờ tốt xấu mà ngày nào cũng phải hành động nói năng suy nghĩ đúng tốt là cách biến ngày xấu thành ngày tốt cho chính mình. Sở dĩ người ta ưa chọn ngày giờ tốt vì người ta ưa thành công hơn là thành nhân vậy.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch thầy, xin thầy từ bi chỉ giáo cho con rõ hơn về chức năng của ý môn hướng tâm vì có nhiều ý kiến rất khác nhau về loại tâm này. Và tâm này có thể xác định nhiều khía cạnh khác nhau của đối tượng như ý kiến dưới đây không thầy:
“In the five-door thought process, mano-dvāravajjana performs determining function (votthapana). It determines the agreeable or disagreeable nature of object. In the mind-door thought process, manodvāravajjana determines the agreeable or disagreeable nature of object as well as mind, matter, cause, effect, impermanence, suffering, non-self, loathsomeness. It can also determine as permanence, pleasure, self, and beauty. This determination of manodvāravajjana gets the name yonisomanasikāra and ayonisomanasikāra.”
Con thành kính tri ân Thầy.
Kính bái,
Con. Liên Thủy.
Xem câu trả lời
Ý môn hướng tâm là sát-na tâm khởi lên một cách tự động khi ý môn tiếp nhận đối tượng pháp trần, do đó nó chỉ làm công việc xác định đối tượng là chính, sau đó mọi quyết định khác được thực hiện trong javana, vì ngũ môn hướng tâm, ý môn hướng tâm và tiếu sinh tâm đều thuộc về tâm vô nhân duy tác nên nó chỉ làm công việc xác định thôi chứ không quyết định điều gì cả. Mỗi sát-na tâm có chức năng nhất định của nó, không nên suy luận và gán ghép cho nó những chức năng “lấn sân” của các sát-na tâm khác.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch thầy, Rằm tháng 4 vừa rồi, sau khi nghe thầy hướng dẫn ngồi thiền, con thư giản thân và buông xả tâm như thầy dạy thì tâm con rất trong sáng và thấy hơi thở ra vào rất rõ ràng tự nhiên, không cần phải chú niệm gì cả. Thật ra trước đây mỗi lần ngồi thiền con thường chọn đề mục niệm ARAHAM mà con thích, lần này đề mục hơi thở tự đến. Thưa thầy, như vậy khi buông xả thì nên để đề mục tự đến hay nên chọn đề mục mình thích? Trong trường hợp vừa rồi của con đề mục tự đến là đúng hay sai? Kính xin thầy chỉ dẫn thêm cho con. Thành kính tri ân thầy.
Xem câu trả lời
Khi con thư giãn buông xả để thân tâm nghỉ ngơi thoải mái thì tâm liền rỗng lặng trong sáng, lúc đó dù con không chọn lựa đề mục thiền thì đối tượng nổi trội nhất sẽ là đề mục tự nhiên không do con tự ý lựa chọn. Đối tượng tự nhiên là đối tượng tốt nhất của thiền Vipassana. Khi nào con không buông xả để tâm rỗng lặng trong sáng được thì mới phải chọn đề mục ưa thích như niệm Araham để giữ tâm nhất niệm. Con thư giãn buông xả mà tâm rỗng lặng trong sáng thấy rõ hoạt động của hơi thở là rất đúng, không cần chọn đề mục chủ quan theo ý mình gì nữa cả. Chọn đề mục cho thiền định thì còn được nhưng thiền tuệ mà con chọn đề mục thì đã bị cái ta ý niệm xen vào rồi, không thể nào thấy thực tánh pháp được nữa.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy, hôm trước ở chùa Hòe Nhai con cùng người bạn ngồi bên hè nghe Thầy giảng, con thấy người bạn con như muốn thưa hỏi Thầy rằng: Thế nào là Sáng suốt Định tĩnh Trong lành? Vài phút trước trong lúc đọc cuốn Cửa thiền hé mở, con chợt nhận ra câu trả lời với hình ảnh thầy nâng cốc nước lên. Thầy ơi, câu trả lời cho câu hỏi trên là: khi không có bóng dáng của cái ta xen vào thì ngay đó là Sáng suốt Định tĩnh Trong lành, phải không Thầy?
Đúng như vậy. Tánh biết vốn tự sáng suốt, định tĩnh, trong lành, chỉ vì bị cái ta ảo tưởng che lấp nên không phát huy được. Giống như mặt trời bị mây che nên không thấy sáng, nhưng thực ra mặt trời vẫn sáng. Khi không có bóng dáng cái ta ảo tưởng xen vào thì ngay đó là sáng suốt định tĩnh trong lành, chứ không phải do cố gắng rèn luyện mà đạt được. Giống như mây tan thì mặt trời liền soi sáng rực rỡ. Vì vậy thầy gọi sáng suốt, định tĩnh, trong lành là tự tánh giới định tuệ. Thầy thường cầm ly nước đưa lên để hiển thị rằng ngay đó ai cũng có thể thấy biết như thực không có gì ngăn ngại cả.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy! Những giấc mơ đã liên tục cho con thấy, con vẫn đang đem bản ngã ra để tu. Hay nói cách khác, bản ngã vẫn âm thầm giấu mặt điều khiển sự tu hành, bí mật tìm đến sở đắc… Con phải làm sao thưa thầy?
Bản ngã xuất hiện dưới hai hình thức: Một là cái ta hiện hành (dương bản, hữu thức) và hai là cái ta ngủ ngầm (âm bản, vô thức). Cái ta hiện hành là bản ngã biểu lộ ra ngoài qua khái niệm “tôi”, như tôi hành động, tôi nói năng, tôi suy nghĩ, tôi tu hành v.v… hoặc “của tôi”, như thân của tôi, cảm giác của tôi, hiểu biết của tôi, tâm thức của tôi, sở đắc của tôi v.v… Cái ta hiện hành là cái ta lộ liễu dễ thấy, nhưng nếu không tinh tấn chánh niệm tỉnh giác thì lý trí chỉ có thể suy luận ra nhưng vẫn không thấy được nó. Cái ta ngủ ngầm còn gọi là cái ta âm bản vì nó ẩn trú trong tiềm thức hay ẩn sâu trong vô thức, phần lớn nó hoạt động ngấm ngầm và kín đáo bên trong phần chìm của tâm thức (Bhavanga hoặc A-lại-da thức) nên rất khó thấy. Tuy nhiên, nó vẫn thường xuất hiện như “kẻ tàng hình” dưới hình thức những khuynh hướng tính dục hay những xung động tâm lý, ẩn dưới những mặt nạ thiên hình vạn trạng, trá hình dưới nhiều chiêu thức quỷ quyệt khó lường. Những khuynh hướng này được gọi là những phiền não ngủ ngầm (anusaya kilesa) sai sử, xúi dục hành động, nói năng, suy nghĩ mà ý thức không biết được. Ngay cả giới định tuệ chế định cũng vẫn bị nó đánh lừa. Nhiều người giữ giới, hành thiền nhưng thật ra đang bị cái ta ngủ ngầm sai sử, nói rõ hơn là bị phiền não tham sân si xúi dục. Con có thể thấy được cái ta nơi những người tu hành ấy rất rõ, nhưng bản thân họ thì cứ tưởng mình đã đắc thiền đắc đạo rồi!
Cái ta bắt nguồn từ những điều kiện bên ngoài được thủ đắc qua các giác quan, lúc đầu hình thành cái ta ảo tưởng hữu thức, ý niệm cái ta này trở thành những chủng tử được thu nhập vào tiềm thức, gọi là những tập khí. Chính những tập khí này tạo thành cái ta ngủ ngầm một cách vô thức, rồi cái ta âm bản lại nhập vai kẻ giấu mặt tác động đàng sau cái ta dương bản. Tuy nhiên, hai cái ta này không hoàn toàn đồng nhất, có khi hỗ trợ cho nhau, có khi đối kháng lẫn nhau. Cái ta ý thức muốn làm một hành động đạo đức thì cái ta vô thức phản đối, ngược lại khi cái ta ý thức muốn làm điều xấu cái ta vô thức lại ngăn cản, chính sự mâu thuẫn này đã làm cho con lưỡng lự, bất an và căng thẳng. Dù là những xung động tâm lý hay những khuynh hướng tính dục hoạt động bí mật thế nào nhưng khi khởi động lên bề mặt tâm thức thì nó đã lộ diện dưới hình thức cái ta dương bản rồi, do đó chỉ cần thấy được cái ta dương bản thì dần dần cũng thấy ra mặt âm bản của nó.
Theo Phân Tâm Học thì hữu thức hóa vô thức là cách hóa giải sự xung động của những khuynh hướng tính dục. Thiền Vipassanā là một trong những cách tốt nhất để thực hiện điều đó. Tinh tấn chánh niệm tỉnh giác giúp con loại khỏi thực tại ý niệm tôi và của tôi trên thân, trên thọ, trên tâm, trên pháp để chỉ thấy thực tánh của danh sắc đang vận hành, cái ta hữu thức không còn quấy nhiễu thực tại thân tâm được nữa. Nếu tánh biết luôn lặng lẽ chiếu soi thì những phiền não ngủ ngầm dưới hình thức những khuynh hướng tính dục không còn có cơ hội trở thành những xung động của cái ta vô thức được nữa, và rồi khi nó không còn được cái ta hữu thức nuôi dưỡng, cũng không còn manh động thao túng được nữa thì nó sẽ tự hủy diệt ngay từ trong vô thức. Nhưng khi tinh tấn chánh niệm tỉnh giác không đúng, thì cái ta vô thức đã ẩn núp đàng sau, ý niệm “tôi chánh niệm”, “tôi tỉnh giác”, “tôi tu tập”, “tôi chứng đắc” vẫn còn nguyên đó! Hoặc chánh niệm tỉnh giác được lặp đi lặp lại theo lối mòn quán tính của những phương pháp, kỹ thuật chế định thì cái ta vô thức lại càng dễ xâm nhập hơn.
Trong khi lý trí vọng thức tưởng rằng đã phát hiện ra được bản ngã thì chính nó là một trong những đường dẫn ưu ái nhất cho cái ta vô thức hoạt động. Lý trí không làm được công việc hữu thức hóa vô thức, mà chỉ tạo cơ hội cho cái ta ngủ ngầm trở thành cái ta hiện hữu. Vậy có thể con đã chánh niệm tỉnh giác sai, một loại chánh niệm tỉnh giác của lý trí hữu vi chứ không phải là bản chất vô vi tự nhiên của tánh biết. Thầy nhớ không lầm thì con đã có lần vô tình buông cái ta chánh niệm tỉnh giác hữu vi ra và thực tánh pháp đã xuất hiện, sao bây giờ con lại loay hoay trở về lại với cái chánh niệm tỉnh giác hữu vi ấy nữa? Ngay khi con đặt câu hỏi “phải làm sao” thì cái ta đã hiện diện ở đó rồi. Hãy buông xuống đi thì pháp sẽ tự vận hành hoàn toàn vô vi vô ngã. Hãy đề cho tánh biết tự thấy pháp, con đem cái ta “phải làm sao” xen vào để làm gì?
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy. Thầy dạy là quan sát thấy tâm sinh ra sao, tâm diệt như thế nào và nguyên nhân sinh diệt của tâm ấy. Nhưng mỗi lần con phát hiện ra thì tâm đó liền biến mất rất nhanh và trở về trạng thái Xả. Hoặc có trường hợp tâm sinh diệt nhanh quá, con không phát hiện ra. Do đó con chưa học được quan sát thấy pháp trọn vẹn như thầy dạy. Con muốn tham cứu thêm ạ. Con cảm ơn thầy nhiều!
Xem câu trả lời
Như vậy là con cũng đã quan sát thấy tâm con rồi đó. Nếu con mới phát hiện một trạng thái tâm thì nó liền biến mất tức là thấy tâm diệt. Đó là thấy tâm diệt không thấy tâm sinh: loại thấy tánh thứ nhất. Rồi con sẽ phát hiện tâm ngay khi mới sinh và cũng thấy nó diệt luôn. Đó là thấy tâm sinh diệt: loại thấy tánh thứ hai. Sau khi thấy tâm diệt không thấy tâm sinh lại. Đó là thấy tâm không sinh diệt: loại thấy tánh thứ ba. Khi con thấy tâm sinh diệt như vậy tức là con thấy tánh vô thường, khổ, vô ngã của pháp. Nhớ rằng pháp đến đi tự nhiên, nên thấy cũng phải tự nhiên, con càng cố thấy càng không thấy được, chỉ cần tâm rỗng lặng trong sáng thì con sẽ thấy dễ dàng hơn.