Thưa thầy cho con hỏi: Trong “THAM SÂN SI” 2 chữ THAM SÂN thi dễ biết, dễ chữa, còn SI thi khó biết và khó chữa; thường thì những trường hợp nào gọi là SI ạ? Con còn kẹt chưa thông chữ SI này, mong thầy chỉ dạy cho con.
Thưa thầy: trước khi tham gia khóa hoc thiền của thầy con cũng có nghe ở đâu đó một vị thiền sư đã nói như vầy: “DÙNG THÌ PHÔ RA, BỎ THÌ ẨN TÀNG, SÂU THÌ VÉN ÁO, CẠN THÌ NHÓN GÓT”. Quả thật khi đó con hiểu chỉ một phần cạn cợt là trong cuôc sống đơn giản “lúc nào sâu cần vén; lúc nào cạn thì cần nhón” Nay con đươc hoc pháp của thầy thì con hiểu ra “TẤT CẢ CÁC VỊ THIỀN SƯ KHI ĐÃ GIÁC NGÔ THÌ ĐỀU GIỐNG NHAU’. Con cảm ơn thầy đã dạy bảo chúng con.
Xem câu trả lời
Tham, sân, si xuất phát từ vô minh ái dục. Nên si là biểu hiện cụ thể nhất của vô minh. Si gồm những yếu tố sau: vô ký (một loại tâm xả bất thiện), phân vân nghi hoặc, phóng tâm trạo cử, hôn trầm thụy miên, vô tàm, vô quý (không biết thẹn và chẳng biết sợ hậu quả của những điều sai xấu). Si có khi đi riêng thành tâm si, nhưng trong tham sân cũng có si tham dự, nhất là với những tâm hữu trợ (cấn có xúi dục).
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy, xin thầy giải thích và đưa ví dụ của những khái niệm hay làm con lẫn lộn, đó là: thất niệm, vọng niệm, tạp niệm và phóng tâm! Con xin cám ơn thầy.
Xem câu trả lời
Thất niệm là tâm không có mặt nơi thực tại đang là, ví dụ như đang lái xe mà tâm lại ở quán rượu. Vọng niệm là tư tưởng hay quan niệm sai lệch về bản chất thực tại, ví dụ như đau khổ mà cho là hạnh phúc. Tạp niệm tức suy nghĩ lung tung bất định và đó cũng chính là phóng tâm hay trạo cử, ví dụ như một học sinh đang làm bài tập mà không hứng thú, không tập trung được vì bị những tạp tưởng xen vào.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy con thấy rất nhiều về chữ “rải tâm từ” nhưng con chỉ hiểu sơ về từ ngữ đó theo nghĩa bề nổi, con không biết nghĩa chính xác từ đó sẽ được hiểu như thế nào, và con thấy trong kinh sách cũng nói rất nhiều về hạnh “rải tâm từ” vậy làm sao để con có thể thực hành “rải tâm từ”?
Xem câu trả lời
Khi tâm mát mẻ, dịu dàng, hiền thiện, không sân hận, không đối kháng, không bất bình với bất kỳ điều gì hay bất kỳ ai thì gọi là tâm từ. Khi tâm đó hướng đến một, nhiều hay vô lượng đối tượng thì gọi là rải tâm từ.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy! Theo con biết, có một vị tu hành giữ giới luật nghiêm chỉnh, hành thiền đều đặn mỗi ngày và có quyết tâm hạ thủ công phu rồi mà sao vẫn bị tai biến mạch máu não ạ? Con nghĩ, ở mức độ thấp, thiền là môn thể dục, vệ sinh thần kinh, giảm stress. Như vậy chí ít, thiền sẽ làm thông mạch, đánh tan các cục máu đông… như vậy sẽ không còn bị tắc mạch máu chứ ạ?
Bị tai biến mạch máu não có nhiều nguyên do. Sự hình thành của nó gồm nhân, quả và duyên (điều kiện hoàn cảnh). Về nhân quả thì mọi sự kiện xảy ra đều là kết quả của nhân quá khứ. Nhân hiện tại có thể cho quả hiện tại nhưng phần lớn chỉ làm duyên cho quả của nhân quá khứ trổ sinh. Ví dụ Ngài Cakkhupāla bị mù mắt dù ngài là bậc Alahán tu hành rất tinh tấn. Bị mù là quả của nhân quá khứ Ngài hại người ta mù mắt, còn không ngủ để tu hành tinh tấn chỉ là duyên cho quả bị mù trổ sinh, nhưng lại là nhân hiện tại (cộng với nhân quá khứ nữa) cho quả Alahán.
Vậy việc vị tu hành tinh tấn nhưng bị tai biến mạcn máu não có thể do: 1) Nhân quá khứ trổ quả, nhân tu hành hiện tại không liên quan. 2) Nhân quá khứ trổ quả hợp với duyên hiện tại tu hành quá căng thẳng. Nói chung con không nên vội đánh giá điều gì khi chưa biết rõ về điều đó. Khó mà biết được qua bề ngoài để đánh giá nội dung bên trong.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy. Con sống và làm việc theo những gì thầy chỉ dạy mỗi ngày từ lúc tỉnh dậy ở trên giường cho đến khi nằm lại trên giường và chuẩn bị ngủ. Nhưng chính trạng thái quá tỉnh thức với thân, thọ, tâm, pháp như thế làm con mất ngủ (trước đây con nằm xuống giường chỉ 60 giây là ngủ). Con cứ nằm và cảm nhận tất cả một cách quá tỉnh táo như vậy. Dẫu biết rằng như Thầy đã dạy tự mình bước tới được thì phải bước lui được, nhưng con không thể. Kính xin thầy từ bi chỉ dạy. Con xin cúi đầu đảnh lễ thầy.
Có 2 loại tỉnh thức: Tỉnh thức do cố gắng của cái ta và tỉnh thức khi vắng bặt cái ta. Tỉnh thức của bản ngã là sự cố gắng duy trì ý thức miên mật trên các đối tượng, đó là sai lầm lớn của những hành giả có chủ ý dụng công để đạt được một trạng thái miên mật lý tưởng trong hành trì. Ngược lại, khi vắng bặt cái ta có chủ ý dụng công thì tánh biết liền tự tỉnh thức một cách tự nhiên, không cần duy trì miên mật bởi vì trong tỉnh thức vô ngã này không có ý niệm thời gian.
Khi con thấy mình có tỉnh thức và có mất ngủ tức con đã rơi vào ý niệm thời gian cùng với cái ta phản ứng theo chiều hướng vừa ý hay không vừa ý, nghĩa là đã để cho tham và ưu xen vào. Nhưng trong thái độ chánh niệm tỉnh giác thực sự vô ngã thì không có tham ưu xen vào dù khi nhìn thấy trạng thái tham ưu. Con có thấy rõ sự khác biệt giữa thái độ tỉnh thức trên thực tại và trạng thái của thực tại không? Khi thái độ tỉnh thức là vô ngã thì trạng thái thực tại đều rỗng lặng trong sáng tức không có ý niệm năng sở, ngã pháp. Nhưng khi thái độ tỉnh thức là hữu ngã thì trạng thái thực tại trở thành đối tượng sở tri, và dễ dàng biến thành sở hữu và sở đắc, do đó phát sinh ý niệm năng – sở, ngã – pháp.
Trong Thất Giác Chi, khi con Phấn Khởi trong Trạch Pháp hay Tinh Tấn quá mức cần thiết, thiếu tự nhiên, thì sinh ra trạng thái hưng phấn, trạo cử, dao động, đó là lý do vì sao con bị mất ngủ. Vậy con chỉ cần điều chỉnh bằng thái độ Khinh Thư, Buông Xả thì tâm sẽ Ổn Định được trạng thái hưng phấn nên sẽ quân bình trở lại và hết mất ngủ thôi.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa sư cho con hỏi pháp là ý thức trên tâm, chánh niệm trên chánh niệm. Vậy nó còn nghĩa nào nữa không. Con chưa hiểu rõ. Mong sư giải đáp dùm con. Con cám ơn sư
Thưa sư, con muốn hỏi là thân sinh ra thọ, thọ sinh ra tâm, tâm sinh ra pháp. Vậy cái pháp này nó còn có ý nghĩa nào khác không ạ? Kính mong sư giải đáp giùm con. Con cám ơn sư rất nhiều.
Không phải thân sinh ra thọ, thọ sinh ra tâm, tâm sinh ra pháp mà là duyên thân và tâm mà thọ sinh, duyên thân và thọ mà tâm sinh, duyên thân, thọ, tâm mà pháp sinh. Đối tượng pháp trong Tứ Niệm Xứ gồm: 5 triền cái, 5 uẩn, 12 xứ, 7 giác chi, 4 Diệu Đế.
Pháp được dùng rất nhiều nghĩa: 1) Lời Phật dạy 2) Đối tượng của ý 3) Thực tại 4) Chân lý 5) Vạn sự vạn vật, 6) Tâm, tâm sở, sắc, Niết-bàn. 7) Một trong 4 niệm xứ.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Khi con quán tâm thì con ý thức, chánh niệm trên cái tâm đó thì nó là cái pháp rồi, vậy sao có người lại nói con phải chiêm nghiệm, không suy nghĩ. Cái pháp đó còn một ý nghĩa khác nữa. Kính thưa sư lâu nay con vẫn chưa nghĩ ra được.
Xem câu trả lời
Như vậy không phải là quán, cũng không phải là chánh niệm. Quán không phải là nghĩ về và chánh niệm không phải là nhớ đến, vì 2 động thái này chỉ đúng trong tục đế, tức trong pháp chế định. Nhưng đối tượng của quán (soi chiếu ) là thực tánh nên phải trực tiếp thấy biết (tuệ tri) với tâm tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác, chứ không thể nghĩ bàn hay hay nhớ lại điều gì. Xin xem câu trả lời về chữ pháp vừa rồi.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính Thưa Thầy.
Thời gian tới, chùa Bửu Long có mở lớp học tụng kinh Pali không ạ? Con cảm ơn Thầy.
Xem câu trả lời
Có thể sẽ mở lớp nếu có nhiều người đăng ký học
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy, con chúc Thầy luôn mạnh khỏe, an lạc. Lần trước con đã hỏi thầy về chuyện con ăn ít nên để mọi người trong gia đình lo lắng, nay con ăn nhiều hơn chút và người cũng mập ra chút nên bố mẹ đã yên tâm để cho con ở Đà Nẵng một mình và học tiếp năm cuối đại học rồi ạ.
Hôm nay tự nhiên con nhớ tới một chuyện mong thầy chỉ giúp con. Thưa Thầy, người mẹ mà khi bắt đầu mang thai con mình mà nhìn thấy Sao Mai thì đó là điềm lành hay dữ và nó có liên quan gì tới số mệnh của người con không?
Chuyện này rất quan trọng với con, mong thầy từ bi giảng giải.
Mong thầy luôn mạnh khỏe và an lạc.