Thưa Thầy,
Nếu như vậy thì chẳng phải là từ xưa tới nay toàn là Pháp tu chứ mình có làm gì đâu ạ, dù mình có nhận ra là pháp tu hay không thì đó vẫn chỉ là Pháp tu thôi đúng không Thầy. Do mình không nhận ra nên cứ tưởng là mình tu nhưng hóa ra toàn là Pháp tu hết, giờ biết mình chẳng làm gì được nữa thì ngồi xem Pháp tu thôi. Thân là Pháp, tâm cũng là pháp, sự ảo tưởng về cái ta cũng là Pháp.
Kính Thầy.
Kính thưa thầy, khi tâm con bất an, con thấy tâm con bất an. Lúc tâm đang bất an như vậy, con nhận thấy bản ngã muốn loại bỏ sự bất an này, và do vậy một cảm giác khó chịu trong thân con phát sinh. Khi sự bất an kéo dài, con thấy nó kéo dài kèm theo cảm thọ khó chịu cũng kéo dài đến nỗi nhiều lúc con không còn kham nhẫn với cảm giác bất an này. Xin thầy cho con một lời khuyên phải làm sao là đúng.
Xem câu trả lời
Cảm giác khó chịu đó không phải phát sinh trong thân mà là cảm thọ khổ ưu trong tâm do tâm còn cái ta đối kháng lại với trạng thái bất an. Chính sự đối kháng này làm cho bất an kéo dài và tâm lý này đưa đến căng thẳng. Nếu thần kinh con yếu thì sự căng thẳng này làm phát sinh cảm giác rất khó chịu trong thân. Vậy hãy buông xuống sự đối kháng, chỉ thấy trạng thái bất an với tâm từ ái hay thản nhiên là bất an sẽ lắng xuống ngay. Mặt khác con phải khám bệnh để xem thần kinh có suy nhược không? Thần kinh suy nhược là chuyện bình thường ai cũng có chỉ cần thường thư giãn buông xả là có thể ổn định trước khi đi đến trầm trọng hơn.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy, chẳng có chi không phải là Pháp. Chỉ cần đủ duyên thì Pháp sẽ biểu hiện, hết duyên sẽ đi, dù có hay không có bản ngã thì đủ duyên pháp vẫn cứ biểu hiện. Vậy thì thứ bản ngã kia sinh ra để làm gì, hàng giả, vô dụng rồi! Con tạ ơn Thầy!
Đúng bản ngã là hàng giả nên thầy mới gọi là cái ta ảo tưởng. Tuy nhiên khi cái ảo tưởng ấy khởi lên thì nó sẽ giữ pháp lại hay đuổi pháp đi theo ý nó chứ không phải để pháp đến đi tự nhiên, do đó mới có luân hồi sinh tử phiền náo khổ đau. Nếu không phát hiện được hành tung sinh diệt của cái ta ảo tưởng thì cũng khó mà để pháp đến đi tự tại vô ngại được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy
Con đang tìm hiểu Pháp môn “Tổ sư thiền” và đang thử tu tập. Nhưng 2 điều cơ bản là “Tin pháp môn” và “Tin tự tâm” thì con chỉ mới nghe qua còn mơ hồ quá. Nên con bối rối vì tự biết căn cơ con yếu kém. Con đang cố gắng nhưng cũng chưa được bao nhiêu.
Kính thỉnh Thầy từ bi chỉ dạy cho con.
Theo thứ tự thì con phải nên học phần nào trước?
“Tin pháp môn” và “Tin tự tâm” thật sự phài nên hiểu như thế nào cho đúng?
Kính ơn Thầy từ bi giảng dạy cho con
Thầy thì thấy là “tin pháp môn” tức là tin vào pháp, còn “tin tự tâm” tức tin vào tánh biết. Trong thiền không có người hành tức không có cái ta hành mà chỉ có tánh biết tự chiếu, không có đối tượng được cái ta chọn để hành và chỉ có pháp đang vận hành theo thực tánh của nó. Tánh biết soi chiếu pháp một cách tự nhiên chính là thiền. Chỉ khi cái ta ảo tưởng xen vào chọn pháp này bỏ pháp kia, lăng xăng tạo tác thì mới có luân hồi sinh tử phiền não khổ đau. Nhận ra rằng tánh biết thấy pháp thì thiền Vipassanà gọi là tuệ thấy thực tánh (yathàbhùtà nànadassana), Thiền Tông gọi là ngộ hay kiến tánh.
Vấn đề không phải là tin vào Như Lai Thiền hay Tổ Sư Thiển mà có nhận ra rằng thiền chính là tánh biết thấy pháp hay không mà thôi. Chúc con thấy ra sự thật.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy, xin thầy cho con được hỏi, khi con người còn sống, tánh biết biết pháp thông qua mắt tai mũi lưỡi thân và ý. Khi chết rồi, 6 căn đó không còn, tánh biết nhờ vào đâu mà biết được pháp? Con xin thầy chỉ dạy.
– Ở Hà Nội có một số người bị mù, thậm chí là mắt giả, mà vẫn “thấy” được, lại còn thấy cả những cái mà người có mắt không thấy. Đó chính là cái thấy của tánh biết.
– Trong vô thức tánh biết hoạt động dưới dạng bhavanga hay alaya. Có những vấn để không giải quyết được bằng ý thức mà lại giải quyết được trong vô thức.
– Có những linh tri hay giác quan thứ 6 biết được không qua 6 căn. Ví dụ như thầy thường trả lời những câu hỏi khi chưa được hỏi ra, đó là cảm nhận mà hữu thức không biết nhưng linh tri lại biết.
– Khi chết, tử tâm (cuti) chấm dứt sinh nghiệp và tánh biết trở về bhavanga rồi tái hiện thành kiết sanh thức (tâm thức tái sanh: patisandhi) trong kiếp sống mới.
Tóm lại, tánh biết vẫn vận hành khi không qua sáu giác quan. Con xem lại chương 3 Sống Trong Thực Tại phần các loại nhận thức (tri) sẽ rõ hơn.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy, sau khi thầy rời Melbourne, chúng con đệ tử của thầy – Thuần Tịnh, Thuần Tánh, Thuần Nhiên, Thuần Tâm, Thuần Như, Thuần Tuệ đều có tâm trạng giống anh Tuấn. Chúng con nhớ đến lòng từ bi bao la của thầy, nét hoan hỷ thanh tịnh nhẹ nhàng từ thầy. Và con tự hỏi, có phải vì thầy luôn sáng suốt, định tĩnh, trong lành nên có một năng lượng làm việc như vậy. Cả tuần liên tục thầy thuyết pháp, trả lời mục Hỏi đáp trên trang web, tiếp kiến Phật tử giảng giải Phật pháp,… Chúng con không thể nào đủ năng lượng làm việc liên tục như vậy, thong dong tự tại như vậy! Chuyện hoằng pháp còn dài, xin thầy dành ít thời gian nghỉ ngơi.
Kính thầy.
Thầy vừa giảng xong buổi thứ 2 ở Sydney, thầy còn giảng 4 buổi nữa mới đi Brisbane, Adelaid và Perth để giảng tiếp. Ở đây thầy giảng theo đề tài yêu cầu của các Phật tử chứ không giảng như ở Melbourne. Và Phật tử ở đây cũng đặt câu hỏi nhiều hơn.
Thầy rất hoan hỷ khi thấy các con tiến bộ rất nhanh trong pháp thiền này. Các con nói đúng, tất nhiên những điều thấy nói phải xuất phát từ sự chứng nghiệm tự thân, nếu không thì chỉ là một số lý thuyết suông vô bổ. Chính vì vậy mà khi các con thực nghiệm cũng thấy sự thật hiển nhiên đó. Thầy đã nói pháp bình đẳng với mọi người nên hãy tự tin và tin vào pháp rồi các con sẽ tự khám phá ra những gì thầy đang nói và đang sống như các con mô tả. Chúc các con thường rỗng lặng trong sáng, an nhiên tự tại.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con chào thầy,
Con mới đọc xong cuốn “Sống trong thực tại” của thầy, con rất thích, gạch chân rất nhiều đoạn.
Con chỉ có 2 điểm hơi băn khoăn xin trình bày với thầy:
– Thầy dùng từ “tánh biết” nhiều lần, có 1 chỗ thầy giải thích rõ “tánh biết” là khả năng thấy biết tự nhiên vốn có của tâm. Con nghĩ là con hiểu ý thầy nhưng còn chỉ hơi băn khoăn nếu Phật tử Bắc tông chưa hiểu gốc đọc như vậy có thể bị nhầm lẫn khi thầy nói “tánh biết” thành tánh biết, tánh nghe, tánh thấy… trường tồn bất biến như trong các kinh Đại thừa nói không?
– Con rất thích câu thầy nói chỉ có giải thoát hoàn toàn khi chấm dứt bản ngã chứ không có bản ngã giải thoát hoàn toàn. Con cũng hiểu ý thầy khi thầy nói đại ý tu để hoàn thiện bản ngã thì không bao giờ giải thoát.
Nhưng con có 1 kinh nghiệm thế này xin thầy chỉ cho con có gì sai không. Cách đây mấy năm khi con đọc phần về phức cảm tự tôn trong cuốn “Một kỹ thuật sống”, tự nhiên con cảm thấy là muốn vô ngã thì trước hết phải phát triển một cái tôi lành mạnh. “Cái tôi lành mạnh” con nói ở đây không phải là hoàn thiện cái tôi mà là khi “tôi” thoát khỏi mặc cảm tự ti hay phức cảm tự tôn, nghĩa là khi không còn so sánh mình kém hay hơn người khác, mà việc so sánh đấy là biểu hiện cơ bản của bản ngã. Lúc đó con cảm thấy đó là một cảm nhận rất quý giá đối với con, từ đó con bắt đầu cảm thấy bình an hơn, không so sánh thì con thấy bớt ghen tị và kiêu mạn. Con nghĩ nếu con nói phát triển cái tôi lành mạnh theo ý đó thì không sai với ý của thầy đúng không ạ?
1) Tánh biết thầy đã nói rất rõ là không thường cũng không đoạn, không sinh cũng không diệt v.v… Nếu thường thì làm sao nó ứng biến khi thì vô thức khi thì hữu thức? Nếu đoạn thì sao khi nào cần liền hiển dụng, khi chết vẫn tái sinh? Nói có thì khi bất tỉnh hay trong vô tưởng định nó đi đâu? Nói không thì sao khi cần lại có? Nói tánh biết là thường dĩ nhiên là sai vậy con nói là gì khi tánh biết là bản tánh của tâm? Nếu con phủ nhận tánh biết thì lấy gì để tu hành?
2) Con lầm cái ta ảo tưởng với cái hoạt dụng của hợp thể pháp danh và sắc trong mỗi người. Nếu con nói vậy thì một người chứng tuệ danh sắc tức không thấy ngã trong thân tâm sẽ không tu tiến được nữa sao? Và một vị Tu-đà-hoàn không còn ngã kiến cũng không còn động cơ nào để tu tập đến A-la-hán được nữa sao? Thực ra chính lúc đó tánh biết tu chứ không phải cái ta ảo tưởng tu, đúng không?
Trong cuốn sách con đọc là nói về sự tiến bộ theo dòng đời, còn tùy duyên thuận pháp vô ngã vị tha là nói sự giác ngộ giải thoát theo dòng pháp. Trong dòng đời vẫn có dòng pháp nhưng dòng pháp là chân đế (paramattha sacca) còn dòng đời là tục đế (sammuti sacca). Có ngã thì chỉ tiến trong tục đế, vô ngã mới giác ngộ chân đế đó con.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy, con là Tuấn (anh của Xuân) ở Melbourne. Thầy đi Sydney đã một ngày vậy mà hình ảnh và giọng nói của thầy vẫn còn văng vẳng bên tai chúng con. Sau một tuần nghe các bài pháp của thầy, những nhầm lẫn trầm trọng của chúng con, thậm chí của cả một số vị tu sĩ nữa, nay đã được khai thông tất cả, đã được rõ ràng minh bạch. Còn gì hạnh phúc hơn khi chúng con ở tận Úc châu xa xôi được một minh sư tạm gác Phật sự đa đoan ở quê nhà đến đây giảng pháp và giải đáp từng gút mắc của từng Phật tử. Cánh cửa giải thoát đã được mở toang. Phước báu thay! Hạnh phúc thay! Trăm ngàn lần cúi đầu đảnh lễ cầu hồng ân Tam Bảo gia hộ cho thầy được dồi dào sức khỏe, pháp thể khinh an để thầy tiếp tục mang giáo pháp của đức Thế Tôn khai ngộ cho tất cả Phật tử gần xa. Kính.
Thầy cũng rất hoan hỷ khi thấy Phật tử ở Melbourne tiếp thu rất nhanh pháp thiền mà thầy chia sẻ. Trừ một số ít bị kẹt vào một phương pháp cố định, hầu hết không nhiều thì ít ai cũng thấy ra được pháp thiền này phù hợp với mọi lúc mọi nơi và lợi ích thiết thực trong mọi hoàn cảnh đời sống chứ không giới hạn trong trường lớp hay trong những môi trường tuyển chọn. Cuộc sống phức tạp và đa diện nên cần có pháp thiền thích ứng với mọi người, mọi hoàn cảnh, mọi căn cơ trình độ thì mới không bị lặp đi lặp lại như một lối mòn của thói quen hay rập khuôn trong những phương pháp chế định chỉ đưa đến những kinh nghiệm cục bộ cá nhân.
Chuyến đi Úc lần này giúp thầy tiếp xúc với nhiều Phật tử đã thể nghiệm được pháp thiền tùy duyên thuận pháp vô ngã vị tha này một cách rất nhuần nhuyễn thông suốt. Đó chính là niềm vui lớn nhất trong bước đường hoằng hóa của thầy. Thầy hoan hỷ chúc mừng con.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy, xin Thây giảng dùm mối tương quan và sự khác biệt giữa sự ô nhiễm của tâm và vọng tưởng.
Kinh Đại Niệm Xứ dạy: con đường duy nhất để thanh lọc tâm để đi đến giác ngộ và giải thoát là Tứ Niệm Xứ. Thanh lọc tâm tức là thanh lọc sự ô nhiễm của Tâm, nhưng trong nước có môn phái Thiền dạy hãy để tâm theo dõi vọng tưởng và thấy vọng bỏ vọng. Theo con nghĩ vọng là do ô nhiễm phát sinh, tâm còn ô nhiễm thì còn vọng tưởng chứ bỏ vọng biết bao giờ mới hết để chân tánh hiện ra, ngày qua ngày bỏ vọng mà vọng vẫn còn, cuối cùng Thiền sinh chỉ là người đi cút bắt vọng tưởng. Vậy con kính Thầy giảng giải dùm.
Ô nhiễm là những phiền não ngủ ngầm trong tâm và từ đó mà phát sinh ra những vọng tưởng. Nói cách khác ô nhiễm là những khuynh hướng tiềm ẩn trong vô thức chúng trở thành những xung động tạo nên những tư tưởng sai xấu gọi là vọng tưởng.
Khi vọng tưởng xuất hiện chính là ô nhiễm hiện hành, do đó thấy được sự sinh diệt của vọng tưởng chính là phát hiện ra những ô nhiễm ngủ ngầm. Không phải bỏ vọng mà là thấy ra được tánh tướng thật của vọng niệm. Đó là cách diệt ô nhiễm bằng trí tuệ vipassana trong Tứ Niệm Xứ.
Trong thiền vipassana tinh tấn là không buông theo vọng tưởng chứ không diệt vọng tưởng mà chỉ chánh niệm tỉnh giác để thấy vọng tưởng sinh diệt như thế nào. Không xem vọng tưởng là ta, của ta hay tự ngã của ta. Nó chỉ là pháp vô thường, khổ, vô ngã.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Trong một câu trả lời ngày 23/11, Thầy có viết: “Con cứ để tâm trí rỗng lặng trong sáng còn việc chấm dứt phiền não hoặc đạt được điều gì hay không thì để pháp tự vận hành. Con đừng cố gắng hay tính toán mà tạo cơ hội cho bản ngã xen vào”… Gia đình con cứ muốn con lấy vợ. Con thì nghĩ lấy vợ cũng không sai. Việc đó nó chỉ làm cho con, một người theo đuổi chân lý và muốn giúp ích cho mọi người, phải bớt đi chút tâm sức để chú ý vào việc vợ con; còn lại thì không hề chi. Việc đó nó còn làm cho gia đình không bị xáo trộn… Như vậy, con cho rằng việc lấy vợ là việc nên làm. Khi con cho rằng như vậy rồi thì con suy nghĩ, tính toán và làm một cách tự nhiên với thật tâm, nhiệt thành (mà không quá cố gắng). Con thưa Thầy:
– Tâm con như vậy thì có gọi là rỗng lặng trong sáng được không ạ? Sự suy nghĩ, tính toán và hành động của con về vấn đề đó có gì sai không ạ?
– Sự xác định mối quan hệ giữa chuyện vợ con với chuyện theo đuổi chân lý, làm lợi lạc cho mọi người của con như vậy có ổn không ạ? Xin Thầy cho con lời khuyên về vấn đề này!
– Qua chuyện này con nghĩ Thầy cũng thấy được mức độ thấy biết của con tới đâu. Trong một cái nhìn khái quát nhất, con xin Thầy cho con lời khuyên để con có thể thấy biết rõ ràng hơn nữa ạ?
Con thành kính tri ân Thầy “của con”!
1) Tính toán thì con cứ tính và lảm theo ý mình nhưng không chắc mọi chuyện diễn ra đùng như ý con. Không sao, đó cũng là cách học ra bài học điều chỉnh nhận thức và hành vi của mình.
2) Lấy vợ hay không lấy vợ đều là bài học để con thấy ra chính mình và cuộc sống. Quan trọng là qua đó con có học ra bài học của mình hay không mà thôi.
3) Trong trường hợp nào tâm con cũng có thể rỗng lặng trong sáng được nếu như không để cho tư kiến tư dục xen vào.