Kính bạch thầy, con thường theo dõi mục hỏi đáp và các bài giảng của thầy, nhờ vậy mà con gỡ bỏ được rất nhiều những trói buộc về nhận thức giác ngộ. Có một số điểm con còn băn khoăn, xin thầy từ bi chỉ dạy:
1. Phật thường nhắc đến KHỔ. Vậy KHỔ trong KHỔ ĐẾ và trong “VÔ THƯỜNG – KHỔ – VÔ NGÔ có gì giống và khác nhau hay không?
2. Con có nghe một vị giảng về Phật ngôn: “Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường”. Theo vị đó thì, pháp hữu vi là tất cả các hoạt động như đi, đứng, ăn, mặc… Theo con hiểu thì tất cả mọi pháp xuất phát từ động cơ hữu ngã thì là pháp hữu vi. Nếu không có bản ngã phía sau thì là pháp vô vi. Con không rõ con hiểu như vậy có đúng không ạ.
Con thành kính đảnh lễ thầy, mong chư thiên hộ trì thầy luôn dồi dào sức khỏe ạ.
1) Tất cả khổ đều nằm trong khổ đế. Có 3 loại khổ: Khổ tự nhiên, khổ quả và khổ do vô minh ái dục (hoặc tà kiến, tham ái). Hai khổ đầu không đáng kể, chỉ cần nhận biết và nhẫn nại là được, nhưng cái khổ thứ ba mới thật sự là khổ đế cần chú tâm minh sát để thấy ra xuất phát từ nguyên nhân nào.
2) Hữu vi có hai nghĩa: Một là pháp do duyên hòa hợp với nhau mà sinh một cách tự nhiên. Hai là pháp do hữu ý tạo tác mà thành. Hữu vi thứ nhất chỉ vô thường thôi, nếu có khổ thì chỉ là cái khổ tự nhiên, còn hữu vi thứ hai là nhân tạo tác xuất phát từ ý chí của bản ngã mới đưa đến khổ đế. Trong trường hợp chấp hữu vi thứ nhất là ta hay của ta, thì chấp chính là hữu vi thứ hai rồi, nên đương nhiên cũng khổ.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy!
Con hiểu nhận thức đúng là buông bỏ thái độ chủ quan lăng xăng tạo tác của bản ngã. Nhưng tham sân si cũng là pháp, nếu nóng vội buông bản ngã lại rơi vào cái bẫy muốn dẹp bỏ pháp. Vậy buông thái độ chủ quan phải tự nhiên phải không Thầy? Con xin cám ơn.
Đúng vậy, thấy tham sân mà tánh thấy vẫn thanh tịnh trong sáng không bị đồng hóa với tham sân, cũng không cố gắng loại trừ tham sân, thì đó là như lý tác ý và là thái độ đúng đắn của tuệ tri.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy, xin Thầy chỉ dạy thêm về vấn đề làm sao để thấy ra hết bản chất thật của tham ái?
Xem câu trả lời
Con đừng nói “làm sao để” thấy ra bản chất tham ái vì ý tưởng đó cũng là tham ái. Trong thấy chỉ có thấy thôi đừng sinh thêm “ý đồ thấy” mà “tuyết thượng gia sương” như một bạn đã nói hôm qua, làm sao thấy được bản chất của tham ái?
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy, trong phần thực hành con thực tập như thế nầy, mỗi khi phiền não khởi sanh con ghi nhận phiền não, phiền não… đôi ba lần rồi trở về hơi thở, con cảm thấy như vậy chưa đủ để loại trừ phiền não, vì mỗi khi thấy nó là chạy về hơi thở ẩn núp không làm gì nó hết thì làm sao nó mất được. Cho nên con nghĩ là nên đặt câu hỏi tại sau phiền não đến, nó đến như thế nào và gây tai hại gì cho mình? Khi con đặt câu hỏi như vậy thì trong tâm con sẽ có câu trả lời. Khi tâm biết câu trả lời là con đã có chánh niệm. Và khi có chánh niệm thì mới diệt được phiền não phải không thưa Thầy? Cho nên trong đời sống hàng ngày con thường đặt câu hỏi nhiều lắm để thấy được cái động lực đằng sau xúi con làm việc nầy điều kia. Khi thấy được cái nhân v.v… thì mình đã có chánh niệm rồi. Con thực tập thấy như vậy không biết có đúng không xin Thầy chỉ dạy con thêm.
Con xin cám ơn Thầy.
Một là pháp thiền đối trị trạng thái, nhằm mục đích lấy một pháp thiện đối trị một pháp bất thiện, như thiền định, thiền niệm, thiền tư duy, thiền tinh tấn, thiền công án, thiền trì chú, thiền tứ niệm xứ theo hướng đối trị v.v...
Hai là pháp thiền trực nhận thực tại, nhằm thấy ra thực tánh pháp, như thiền quán (thiền tuệ, thiền minh sát), thiền tánh biết tùy duyên thuận pháp, thiền kiến tánh, thiền tứ niệm xứ theo hướng trực nhận thực tánh v.v…
Cách thiền của con là pháp thiền thứ nhất, thiền này có thể đưa đến định tâm, an lạc, đạo đức tốt, giải thoát được ở một vài mức độ dính mắc trong dục giới, và giải ngộ v.v… nhưng vẫn còn hữu vi, hữu ngã nên không thể giác ngộ thực tánh chân đế một cách toàn triệt được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy! Giả sử một người nghiện thuốc phiện, dù người ấy có ý thức về tác hại của việc nghiện hút này nhưng vẫn không thể nào từ bỏ được. Theo con thì cái nhận thức hay sự quán chiếu về tác hại và sự đam mê này không thật sự sâu sắc, sáng tỏ đủ để người này dứt ra khỏi thói quen xấu. Vậy sự quán chiếu sâu sắc để dẫn tới hành động là vô cùng quan trọng.
Và vì vậy con thấy đối với những ai khi chưa có được cái bản lĩnh quán chiếu này thì cho dù có chánh niệm cũng không mang lại ích lợi gì hết. Tham vẫn hoàn tham, si vẫn hoàn si…
Chúng con là những người căn cơ không giống nhau, trình độ tu tập còn yếu kém, vọng tưởng còn quá nhiều, không thể chỉ dùng mỗi cái nguyên lý “chỉ cần có chánh niệm, hay trong thấy chỉ có thấy…” mà Thầy nêu ra. Cái chúng con mong Thầy chỉ dạy là những phương pháp. Dù con biết đó vẫn là những tham muốn, nhưng nếu như không có những tham muốn như vầy thì ngay như bản thân con đây có lẽ vẫn chưa biết đến Phật và đạo pháp, và vẫn chẳng có được sự chuyển hóa tốt đẹp nào trong cuộc đời.
Mong Thầy sẽ hiểu hơn cho tâm tư của chúng con trong những câu hỏi. Con chúc Thầy thân tâm luôn an lạc.
Ở Adelaide, Australia thầy có giảng đề tài: “Không phương pháp vì tất cả đều là phương pháp” và trong một bài giảng khác cũng ở Adelaide thầy có nói: “Không phải là không có phương pháp, mọi hoạt động hàng ngày đều phải sử dụng phương pháp nhưng không kẹt vào 1 phương pháp nào. Đưa tay ra cầm chén cơm, dùng đũa để gắp thức ăn,… mọi hoạt động đó đều là phương pháp, nhưng khi không có đũa thì dùng muỗng, không có muỗng thì bốc tay, v.v… chứ không nhất thiết luôn luôn là đũa. Thầy không nói là không dùng phương pháp mà là không kẹt vào phương pháp nào cả…”
Khổ nỗi là trong khi có người mất công đi tìm cho ra một phương pháp để giác ngộ thì người khác chỉ thấy một ngọn lá rơi liền giác ngộ. Bởi vì thầy thấy ra tất cả pháp đều là phương pháp nên thầy không dám đưa ra một phương pháp nào để người ta phải mất công loay hoay với nó. Thầy thành thật xin lỗi đã làm con thất vọng vì thầy chẳng có một phương pháp riêng của thầy để truyền cho ai cả. Giữa đời này người ta đã đặt ra vô số phương pháp chế định rồi, con cứ chọn lấy một pháp nào đó mà theo là được. Cai nghiện thì chỉ cần tới các trung tâm cai nghiện có biện pháp hiệu quả nào đó là xong, nhưng hết nghiện thuốc phiện có thể nghiện qua thứ khác, thí dụ như nghiện thiền định thần thông chẳng hạn, còn giác ngộ là chuyện hoàn toàn khác. Không biết con có hiểu ra điều đó hay không?
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy trong một bài Pháp thoại Thầy có nói chúng sanh không thể giải thoát được nếu không thấu hiểu được sự tương giao. Xin Thầy giải thích cho con được rõ hơn. Nếu có thể Thầy hoan hỉ cho con nhiều ví dụ trong đời sống hàng ngày, làm thế nào để thấy rõ được sự tương giao?
Con xin cám ơn Thầy nhiều.
Tương giao là sự tương quan, tương tác hay ảnh hưởng lẫn nhau một cách tự nhiên. Tương giao có thể là sinh hay khắc nhau, như âm dương, ngũ hành trong Dịch lý chẳng hạn, dù sinh hay khắc các pháp vẫn hài hòa với nhau. Hoặc như sinh – trụ – diệt cũng hầu như mâu thuẫn với nhau nhưng cả ba cùng hòa hợp không thể thiếu nhau được. Thủy triều lên xuống có ảnh hưởng từ mặt trăng, quỹ đạo của mặt trăng lại có ảnh hưởng từ mặt trời và những hành tinh khác v.v… nói chung vũ trụ vạn vật đều có sự tương giao mật thiết nhưng rất tự nhiên và vô ngã.
Khi mỗi người tự dựng cho mình một bản ngã thì họ tưởng rằng họ độc lập với mọi thứ không phải họ, nhưng trên thực tế họ cần nhờ vả đến người khác nên buộc lòng phải tạo mối quan hệ với những người xung quanh. Từ đó họ bị ràng buộc trong mối quan hệ và chỉ biết mối quan hệ mà họ tự định ra để rồi quên mất sự tương giao vốn có giữa muôn loài vạn vật. Chỉ khi nào nhận ra được đâu là mối quan hệ ràng buộc trong quy định, và đâu là sự tương giao tự nhiên không bị ràng buộc thì mới có thể giác ngộ giải thoát được là vậy.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con kính lễ Thầy. Con là người mới tìm hiểu Phật giáo Nguyên Thủy nên chưa biết nhiều, có gì xin Thây fhoan hỷ chỉ dạy cho con. Theo con hiểu, con người là biết, làm việc gì thì biết việc đó, nhưng đối với con, vì biết mà cảm thấy rất mệt mỏi và căng thẳng.
Có hai hướng biết khác nhau: Một là biết theo hướng thực tánh với tuệ tri (tánh biết, trực giác), hai là biết theo hướng khái niệm của thức tri và tưởng tri (ý thức, lý trí). Vì con biết theo hướng thứ 2, hữu ý, hữu ngãdođặt hướng biết sai thực tánh (phi như lý tác ý) nên trong biết có ý chủ quan cho là, phải là, sẽ là… mới cảm thấy mệt và căng thẳng. Thí dụ khi biết có tham hay sân con không thấy nó như nó là mà luôn phê phán, kiểm duyệt hay giải quyết nó nên mới mệt.
Nếu con biết theo hướng thứ nhất, vô tâm, vô ngã dođặt hướng biết đúng thực tánh(như lý tác ý), nên trong biết không cho là, sẽ là, phải là... một cách chủ quan thì sẽ thấy an nhiên tự tại chứ không hề mệt mỏi căng thẳng gì cả. Thí dụ khi biết tham hay sân con chỉ biết nó như nó đang là một cách trong sáng, hồn nhiên, vô tâm nghĩa là không can thiệp, phê phán, kiểm duyệt hay có ý đồ xử lý gì cả thì sẽ con thấy nó đúng với thực tánh của nó, làm sao mệt mỏi căng thẳng được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy,
Con xin đảnh lễ và thành kính tri ân Thầy về những lời chỉ giáo quý báu Thầy đã ban cho con.
Sau đây con đã đúc kết cho con như thế này: để tránh rơi vào suy tư lý luận của lý trí thức tri và tưởng tri, con không cần phải băn khoăn thắc mắc điều gì hết, mà điều con cần làm bây giờ là sống mỗi ngày thận trọng chú tâm quan sát một cách lặng lẽ tự nhiên, khi việc gì đến thì ứng xử với tâm trong sáng hồn nhiên, chú ý không để cái bản ngã tham sân si xen vào giải quyết, thì dần dần tuệ tri sẽ phát triễn để con có thể chiêm nghiệm và học hỏi từ cuộc sống.
Con còn có điều gì sai kính xin Thầy từ bi chỉ giáo thêm cho con, con thành kính tri ân Thầy.
Con kính chúc Thầy được nhiều sức khoẻ để mãi là bóng mát che chở cho chúng con ở giữa cuộc đời đầy sóng gió.
Nhân đây con xin hỏi lịch trình hoằng pháp năm 2014 của Thầy, tháng mấy Thầy sẽ đi châu Âu, Thầy có đi Mỹ không vì chúng con đang ở Canada, các Huynh đệ của con rất thiết tha mong được gặp để được đảnh lễ Thầy.
Xem câu trả lời
Tốt lắm, con đã nhận thức đúng, giờ chỉ còn thể nghiệm trong đời sống hàng ngày thì mới tự thân chứng nghiệm sự thật.
Khoảng tháng 5, 6 Dương Lịch thầy đi Châu Âu nhưng chưa có lịch trình cụ thể. Nếu có thầy sẽ thông báo.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy,
Con làm nghề giáo viên, con đang có tình cảm với học trò của con, con thương sự trong sáng và hồn nhiên của bạn đó, con thấy bạn đó còn nhỏ quá và còn một tương lai phía trước nữa. Người đó có cảm nhận là con thích, và cũng có thích con, nhưng con cứ dằn vặt hoài, tâm con giao động. Con biết con sai, con muốn dứt ra nhưng sao khi gặp người đó trái tim con trở nên yếu đuối hơn, con không đủ mạnh mẽ để buông xuống. Con bất an quá Thầy ơi, con không muốn tình cảm này tiếp tục phát triển, con sợ có những hậu quả không tốt. Thầy có cách nào tư vấn cho con không ạ và con nên làm sao để buông được Thầy ạ.
Con cảm ơn Thầy.
Đó chính là bài học mà tự con phải học ra trong tình huống mình, không ai có thể chỉ cho con cách nào được cả. Hãy tự tin và sáng suốt để làm sao không hại mình hại người và không để người đời chê trách là được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy, trong cuộc đời tu mình có nên có một người bạn thân để cùng nhau chia sẻ đạo pháp không? Giống như ca dao Việt Nam có câu “ăn cơm có canh tu hành có bạn.”
(Thưa Thầy con ở Mỹ lúc nhỏ nên tiếng Việt không có rành lắm, trong lúc con đặt câu hỏi gởi Thầy nếu có sai chính tả Thầy sửa dùm con).
Con xin tri ân Thầy, xin Thầy tiếp tục chỉ dẫn con từ giờ về sau (sadhu 3 times)
Có lần Ngài Ananda hỏi đức Phật rằng: “Có phải phân nửa đời sống phạm hạnh dưới sự hướng dẫn của Thế Tôn là thiện bằng hữu không?”. Phật trả lời: “Chớ có nói vậy, không phải là phân nửa mà là toàn bộ đời sống phạm hạnh dưới sự hướng dẫn của Như Lai đều dựa trên thiện bằng hữu”. Và đức Phật nói rằng Ngài là bạn của đại chúng. Có bạn tốt hay thiện trí thức thì còn gì tốt bằng.