Câu hỏi:
Thưa Sư, xin Sư dạy bảo giùm, khi tâm thấy “không còn một vật” thì phải làm gì nữa ạ? Con cảm ơn Sư!
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiDanh sách các chủ đề phổ biến
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiCâu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiĐúng vậy con, ai cũng nghĩ bản ngã là kẻ thù của tánh biết, vì trong “trò chơi” giác ngộ nó quả thực là đối thủ đáng gờm, nó không những đầy mánh khóe lừa gạt và biến hóa khôn lường mà còn muốn chiếm ngôi tánh biết nữa! Nó chơi rất nhập vai trong ý đồ muốn trở thành vĩ đại (đại ngã). Khi bản ngã tiếm ngôi thì cuộc chơi ở trong tình trạng Khổ Đế Tập Đế của sinh tử Luân Hồi.
Nhưng bản ngã càng đưa ra bao nhiêu chiêu thức tinh xảo thì càng giúp tánh biết giác ngộ vi tế bấy nhiêu. Nên nói cho cùng dù bản ngã lắm lúc chiếm được ngôi độc tôn và trở thành đại ngã nhưng kết thúc trò chơi, với pabhassara citta, bao giờ tánh biết cũng hóa giải được mọi hiện tướng của bản ngã, khi đó cuộc chơi ở trong tình trạng Đạo đế Diệt Đế hay giải thoát Niết-bàn.
Cuối cùng mới hiểu ra ý nghĩa trò chơi của mỗi người sinh ra trong cuộc đời là: Tính biết ban đầu vô sư trí cần có bản ngã lăng xăng đưa đường dẫn lối như vậy để khám phá ra thể tướng dụng của các pháp mà hoàn thành tính biết cuối cùng hậu đắc trí, nên trong trò chơi giác ngộ này người ta nói phiền não tức bồ-đề không phải là không có lý.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiCâu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiCâu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiPhần thứ nhất con hiểu đúng. Tất cả pháp dù hữu vi hay vô vi, sinh tử hay Niết-bàn đều vô ngã, vì nó vận hành theo nguyên lý của nó chứ không theo ý đồ của ai cả. Bản ngã chỉ là “cái ta ảo tưởng” – hoàn toàn không có thật, cho nên dù có chủ trương “ta”, “của ta”, “tự ngã của ta” hay không thì mọi pháp đang là vẫn vô ngã. Đối với pháp thì tự bản chất của nó là vô ngã, đối với nhận thức thì không khởi niệm chấp trước bất cứ điều gì là vô ngã.
Phần thứ hai con hiểu theo nghĩa “tánh không” (không có bản thể riêng) của pháp hữu vi – do duyên thành lập – thì đúng, nhưng với pháp vô vi, tự nó hiện hữu không do duyên khởi, không do ai thành lập, như Niết-bàn chẳng hạn, thì sao? Những pháp nguyên tố như đất, nước, lửa, gió, hư không và tánh biết đều có đặc tính riêng và tự hữu – không do duyên khởi – nhưng vẫn vô ngã. Dù Niết-bàn thì cũng không chấp là “ta”, “của ta” và “tự ngã của ta”, đó là vô ngã.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiCó hai loại pháp: Pháp hữu vi do duyên hợp mà thành, và pháp vô vi không do duyên mà thành. Như vậy có nhiều cái không của các pháp khác nhau:
– Không = vô thường
– Không = Duyên hợp
– Không = Sinh diệt
– Không = Tịch diệt
– Không = Như thị
– Không = Vô vi, vô hành, vô tác
– Không = Tâm rỗng lặng trong sáng
– Không = Vô ngã
– Không = Bất sinh bất diệt v.v…
Sở dĩ thầy nói: “…trong tướng không, không có ý niệm sinh diệt, nhưng có thực tánh sanh diệt” ý thầy là KHÔNG không phải là ý niệm mà là sự thật như nó là để không lầm tường phải tìm cho ra cái không sinh không diệt ở ngoài cái sinh diệt. Tất cả pháp hữu tướng đều có bản chất sinh diệt nên chỉ qua đó mà thấy không sinh diệt thôi. Cũng như nói “vô thường thị thường” vậy. Bài thơ sau đây của một vị thiền sư nói lên ý ấy:
Chư Pháp tùng bản lai
Thường tự tịch diệt tướng
Xuân đáo bách hoa khai
Hoàng Anh đề liễu thượng
Nghĩa là vẫn thấy tịch diệt ngay nơi hoa nở, chim hót, cành liễu, mùa Xuân v.v… đều là những thứ vô thường, sinh diệt, chứ đâu cần phải tìm sự tịch diệt trong khái niệm vô sinh bất diệt mà người ta thường hiểu lầm theo khái niệm “thường” trong thường kiến!
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lời1) Tất cả thế gian pháp đều là Phật pháp nếu như chúng ta biết lấy đó làm bài học giác ngộ. Không ai không từng trải qua cái đúng, cái sai, cái thiện, cái ác mà giác ngộ giải thoát được cả. Khái niệm thiện – ác, đúng – sai chỉ giúp người học đạo thấy ra hai mặt tương đối của cuộc sống và cuối cùng vượt lên cái tương đối ấy mới gọi là giải thoát. Khi nào thấy được – mất, hơn – thua, thành – bại, vinh – hư, vui – khổ… đều chỉ là bài học giác ngộ chứ không phải là mục đích phấn đấu để chọn lựa lấy bỏ thì sẽ không còn là vấn đề nữa. Thực ra thị trường chứng khoán không hẳn hoàn toàn cho người tham lợi, mà vẫn có mặt tích cực của nó, khi biết đầu tư đúng cách và biết sử dụng lợi nhuận cho đúng tốt.
2) Như thầy đã nói trên, cũng giống như trong việc giác ngộ, chỉ khi đầy đủ căn duyên mới khai ngộ được, nếu chưa thì vẫn phải để mọi người học bài học của mình trong đời sống để thật sự thấy ra thế nào là vô thường, khổ, vô ngã thì sẽ tự giác ngộ sự thật. Cuộc đời tự nó có ý nghĩa là trường học giác ngộ mà mỗi người phải tự mình trải nghiệm, chiêm nghiệm và chứng nghiệm bản chất sự thật. Sự thật có hai mặt chân đế và tục đế mà người giác ngộ phải thấy ra cả hai. Nếu chưa thấy rõ sự tương đối của tục đế thì cũng không thể thấy được sự tuyệt đối của chân đế. Như vậy khi nào thấy đủ nhân duyên cần giúp họ thấy ra sự tham đắm của mình trong lãnh vực này thì cứ giúp để họ tự thấy ra.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiVô thường mà đức Phật nói đây không phải là cái vô thường tự nhiên của vạn pháp trong trời đất, hay nói dễ hiểu hơn, không phải là sự biến đổi của hiện tượng vật lý theo quy luật vận hành tự nhiên của pháp, mà là cái vô thường của thái độ tâm lý, biểu hiện qua Ái – Thủ – Hữu, tức là ý đồ hữu vi tạo tác của cái ngã luôn muốn nỗ lực để trở thành theo ý muốn chủ quan của mình. Vô thường của cái ngã tạo tác này chính là diễn trình phản ứng Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức (ngũ uẩn) đưa đến tích lũy và bành trướng bản ngã nên dĩ nhiên là chỉ đem lại đau khổ mà thôi.
Đức Phật luôn chỉ thẳng vào tâm thái người nghe để người ấy thấy ngay, chứ không bao giờ đưa ra một hệ thống luận thuyết có sẵn nào đó để thuyết phục họ áp dụng như một công thức nhất định. Đức Phật thấy tâm của người nghe đang phản ứng tạo tác để mong trở thành một sở đắc như ý – đó là bệnh tu phổ biến của ngoại đạo thời bấy giờ, mà cũng là muôn đời về sau! Thấy vậy, Ngài liền chỉ cho người ấy cái thái độ tạo tác mà người ấy đang thực hiện chính là vô thường, mà vô thường thì dù có đạt được điều gì như ý rồi cũng trở thành bất như ý, nghĩa là rồi cũng khổ thôi. vậy tại sao phải nỗ lực tích cực miên mật làm gì để chỉ tạo ra vô thường và khổ cho đày đọa thân tâm mà thực chất không có gì là ta, của ta và tự ngã của ta?
Khi Huệ Khả đang muốn tích cực tu tập miên mật sao cho tâm bất an TRỞ THÀNH an, thì cũng bằng cách chỉ thẳng của đức Phật, Đạt-ma đã bảo Huệ Khả, “đưa tâm đây ta an cho”, khiến Huệ Khả ngay nơi cái tâm hữu vi vô thường ấy mà thấy ra thì liền chấm dứt cái động lực tạo tác để trở thành của bản ngã và không còn thấy cái tâm bất an ấy đâu cả – cái tạo tác lăng xăng chấm dứt để trả tâm về với bản tính chói sáng muôn đời của nó, thế là ngộ, là chấm dứt đau khổ. Chính vì Kinh không ghi được chỗ chỉ thẳng cốt lõi này (giữa Phật và người nghe biết thôi) mà chỉ ghi lại lời nói bên ngoài nên người sau biến ngôn từ của Kinh thành hệ thống triết học với những khái niệm hoang vu, không tưởng. Đúng là y kinh diễn nghĩa tam thế Phật oan!
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lời