Thưa thầy! Trong thời gian gần đây con gặp một hiện tượng lạ nên muốn hỏi thầy. Trong giấc ngủ, thình thoảng toàn thân con có cảm giác “bừng bừng” tỉnh. Mặc dù khi đó con đang ngủ, nhưng con biết rất rõ toàn thân. Cảm giác này “rất rõ ràng” từ đầu đến chân. Hiện tượng này xuất hiện và kết thúc trong vài phút. Khi đó nếu con thích thú chú ý hoặc ngắm nhìn thì sau khi hết, con có cảm giác hơi căng thẳng và đau đầu. Nhưng cũng có một số lần con không đau đầu. Vậy đây có phải là hiệu ứng của pháp hành thiền tuệ không ạ? Con xin thầy cho con lời khuyên ạ. Con cảm ơn thầy nhiều ạ!
Điều này còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố mới biết nó phát xuất từ đâu. Ví dụ như quá trình hành thiền tuệ như thế nào, Cảm giác “rất rõ ràng” là cảm giác thoải mái tự nhiên hay có kèm theo phản ứng phụ gì. Giấc ngủ có một loại hoạt động vô nhân của ý giới, nó là một dạng “ý thức” mà Duy Thức Học gọi là mộng trung ý thức. Nói chính xác theo Phân Tâm Học thì nó không hẳn là ý thức cũng không hẳn là vô thức. Dưới hình thức một giấc chiêm bao, nó tái tạo hoạt động của ý thức ban ngày nhưng tự động điều chỉnh sắp xếp lại cho đúng những gì mà ý thức chủ quan của bản ngã đã nghĩ và làm sai. Có những bài toán không giải được ban ngày thì trong giấc ngủ lại giải được. (Tất nhiên cũng có những giấc chiêm bao hư cấu để khẳng định hay biểu lộ bản chất của bản ngã ý chí ban ngày thôi chứ không điều chỉnh nội dung). Tánh biết (tâm) có một khả năng kỳ diệu rất tích cực là khả năng tự động điều chỉnh, cả trong hữu thức lẫn vô thức. Cái biết của vô thức rất “huyền bí” nó hỗ trợ cho cái biết hữu thức rất nhiều. Nếu là hữu thức trí tuệ vô ngã thì rất tốt, nhưng là hữu thức lý trí bản ngã thì chính là kẻ phá hoại tính tự động điều chỉnh kỳ diệu này của tánh biết trong vô thức. Tất nhiên vô thức này là hoạt động trong bhavanga, chứ không phải là vô thức theo nghĩa không ý thức của tâm si.
Đừng xác định gì cả, cứ để vậy mà chiêm nghiệm xem nó cho con bài học gì. Ví dụ như nó cho biết niệm thân là thấy rõ toàn thân như nó là một cách tự nhiên, chứ không phải cố gắng chú ý ngắm nhìn hay tìm kiếm điều gì trong đó một cách chủ quan.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy, con có vài thắc mắc, xin thầy vui lòng giải đáp cho con:
1. Con người lúc còn vô minh thì có bản ngã. Khi mạng chung, mất thân người, bản ngã vẫn còn hay không?
2. Các loại thực vật vẫn có cái biết theo bản năng mà không có tham sân si, vậy có phải cây cỏ luôn sống trong Niết-bàn không?
3. Những loài vật thông minh vẫn có tánh biết, vậy có thể nói loài vật cũng có Phật tánh hay không?
4. Con người theo lục đạo luân hồi mà tái sanh, phải chăng con người đánh mất Phật tánh của mình khi tái sanh vào các cõi thấp hơn?
Con xin cám ơn Thầy.
Trong khóa giảng lần 5 tại Bửu Long, ở ngày đầu tiên (Ngày 1A – Cái thực) thầy đã có nói rất rõ về những vấn đề này rồi, con vào mục Pháp Thoại để nghe nhé. Ở đây thầy chỉ trả lời vắn tắt thôi.
1) Khi sống có chấp ngã thì khái niệm ngã đã được ghi sâu trong tiềm thức Bhavanga hay Duy Thức gọi là A-lại-da thức, nên dù chết khái niệm bản ngã vẫn còn như hạt giống, và hạt giống đó sẽ có cơ hội tái hiện sau khi tái sinh.
2) Bài kệ sau đây sẽ thay thầy giải đáp câu hỏi của con:
Chư Pháp tùng bản lai
Thường tự tịch diệt tướng
Xuân đáo bách hoa khai
Hoàng Oanh đề liễu thượng
3) Triệu Châu trả lời là “VÔ” (Chừng nào con ngộ chữ VÔ ấy của Triệu Châu thì đó chính là câu trả lời, còn bây giờ thầy nói cũng vô ích thôi)
4) Nếu không có Phật tánh đương nhiên là … không mất, còn nếu đã có Phật tánh thì con nói mất cái gi?
Những câu hỏi này không có câu trả lời để thỏa mãn lý trí đâu. Hãy tự khám phá sự thật, sẽ thú vị hơn là chỉ dựa vào nhận thức của người khác.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch sư. Con hành pháp buông xả từ khi sư qua Úc giảng bài pháp Tứ Diệu Đế đến nay. Con thấy con thật may mắn được gặp Chánh Pháp của Đức Bổn Sư cũng như con được khai mở diệu pháp từ sự giảng dạy của sư. Và mới đây nhất con được nghe thêm bài giảng Tứ Diệu Đế ở Tổ đình Bửu Long mà con download từ trên website xuống. Không có gì bằng là vừa hành vừa có thể hỏi thầy nên con xin sư chỉ dạy thêm cho con xem con đang thực tập có sai hay không.
Sự buông xả thật là vi diệu, con thấy các pháp như nó đang là. Hiện con quan sát nhiều hơn những ý niệm trong tâm vì những ý niệm này làm cho con bận rộn hơn hết. Con quan sát tự nhiên khi ý niệm sanh đến lúc diệt thật là thân thương chứ không còn là kẻ thù như trước đây nữa. Con thấy con hoan hỷ trầm tĩnh hơn xưa, thong dong và dễ dàng thấy các pháp như nó đang là, hoan hỷ biết rằng đây là chánh pháp.
Con phải chánh tinh tấn mà hành vì thấy nghiệp quá khứ làm cho con lúc tỉnh thức quan sát, lúc quên một hồi rồi mới nhớ quán tâm. Kính xin sư chỉ dạy thêm cho con về pháp quán tâm và giải thích thêm về vô thức, con chưa hiểu rõ. Con chỉ hiểu vô thức tức là không ý thức, vì diệt vọng tưởng bằng cách đè bẹp không quan sát tự nhiên như nó đang là nên vô thức cứ xuất hiện trong vô minh. Nếu vô thức xuất hiện mà quan sát bình đẳng trong sự tỉnh giác không quên thì những gì xảy ra trong vô thức là pháp đang vận hành có đúng không ạ? Con xin cám ơn sư.
1) Con thực hành như vậy là đúng rồi. Chỉ cần nhớ rằng quan trọng không phải là đối tượng nào mà là chánh niệm tỉnh giác. Nhưng chánh niệm tỉnh giác không phải là cố gắng nắm bắt đối tượng thân, thọ, tâm hay pháp, mà chỉ cầnbuông cái ngã lăng xăng muốn biết muốn được đithì tâm liền rỗng lặng trong sáng, đó mới chính là chánh niệm tỉnh giác thật sự. Đừng chỉ quan sát đối tượng tâm mà là sáng suốt, định tĩnh, trong lành đối với bất cứ đối tượng nào đang diễn ra nổi bật nhất. Ví dụ khi đi thấy đi, khi thọ lạc thấy thọ lạc, khi tâm sân thấy tâm sân… và nếu thấy được sự vận hành tương quan sinh diệt của thân – thọ – tâm thì càng tốt, đó chính là niệm pháp. Vì khi chỉ chú trọng đến một đối tượng chọn lựa, như tâm chẳng hạn, thì phải cố gắng nắm bắt đối tượng đó nên mới thấy có lúc nắm bắt được có lúc không, và có cảm giác bị thất niệm. Nếu tất cả đối tượng trong ngoài xuất hiện trong tánh biết liền biết thì sẽ không có chỗ để quên. Nếu đã thấy biết một cách tự nhiên bình đẳng thì khi quên thấy quên thôi tức là đã nhớ rồi chứ đừng cố gắng nhớ. Cố gắng nhớ thì sẽ không còn là buông nữa.
2) Con xem lại một trong những câu trả lời gần đây nói về vô thức, thầy đã giải thích rõ ràng rồi. Con nói đúng, chỉ cần tánh biết thường soi chiếu thì tự nhiên thấy rõ hoạt động của thân – thọ – tâm – pháp tức là đang “hữu thức hóa vô thức”. Vì vô thức thường xuất hiện qua những hoạt động trên 4 lãnh vực thân, thọ, tâm, pháp nên đức Phật dạy chỉ cần thường thận trọng, chú tâm, quan sát chúng khi chúng xuất hiện một cách tự nhiên thì sẽ không gia thêm vô thức vào vô thức nữa, ngược lại đó là cách duy nhất để chuyển hóa vô thức, hay nói cách khác là đưa vô thức ra ánh sáng.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, con xin được hỏi, trong một vài chia sẻ hỏi đáp gần đây con có thấy thầy có nói tới một vài chỗ như đi sâu vào vấn đề tiềm thức hay vô thức. Theo con hiểu tiềm thức hay vô thức là những thứ nằm bên dưới thúc đẩy dẫn dắt chúng ta hành xử theo điều đó, nó có thể là các cảm nhận, nhận thức, hiểu biết, muốn hay không muốn một điều gì đó và thường chúng ta biết rất ít về hoạt động của nó.
Và tiềm thức hay vô thức chỉ có thể thấy được phần nào thông qua việc quan sát học hỏi từ các cảm xúc tư tưởng hay qua những ứng xử, hành động của chúng ta trong cuộc sống.
Con hiểu về tiềm thức và vô thức là như vậy. Con cũng đọc được một ít sách có nói về điều này nhưng chưa thấy giải đáp nào cặn kẽ. Con mong được thầy chỉ bảo về điều này. Con xin cảm ơn thầy.
Theo Vi Diệu Pháp, tâm thường ở dưới 4 tình trạng khác nhau: 1) Tâm dưới dạng tri giác của 5 giác quan, tương đương Tiền ngũ thức trong Luận Duy Thức. 2) Tâm dưới dạng ý giới tương đương với Mạt-na thức trong Luận Duy Thức. 3) Tâm duới dạng ý thức, cùng tên gọi trong Luận Duy Thức. 4) Tâm dưới dạng tiềm thức gọi là bhavanga (hữu phần) tương đương với A-lại-da thức trong Luận Duy Thức.
Trong 4 dạng tâm thức nói trên chỉ có ý thức là không phải vô thức, ba dạng còn lại được xem như tiềm thức hoặc vô thức nếu không có ý thức hỗ trợ. Năm thức giác quan tuy gọi là thức nhưng là cái biết vô nhân gần như không biết vì chưa có ý thức, thuộc tri giác máy móc được gọi là trực giác giác quan. Các tâm ý giới cũng vậy, chỉ nhận định một cách tự động, và máy móc (vô nhân), hai dạng tâm thức vừa rồi có thể xem là tiền ý thức chứ chưa phải là ý thức. Hữu phần mới thật sự là vô thức hiểu theo nghĩa không có ý thức, hay không ý thức được.
Vô thức có hai nghĩa: 1) Không cần ý thức, bao gồm những hoạt động tự vận hành một cách máy móc dù không ý thức vẫn tiến hành được. 2) Không có ý thức, như khi làm một việc gì mà không tự ý thức được. Tóm lại, có những hoạt động cần ý thức thì phải ý thức rõ ràng, nhưng có những hoạt động không cần ý thức thì nên để pháp tự vận hành không nên xen ý thức vào quá nhiều, nhất là những hoạt động ý thức chủ quan.
Chánh niệm tỉnh giác chính là cách tốt nhất để hữu thức hóa vô thức, mà môn Phân Tâm Học của Sigmund Freud muốn nói đến. Chánh Niệm tỉnh giác giúp chúng ta phát hiện ra những hoạt động thúc đẩy từ vô thức mà Phật giáo gọi là những phiền não ngủ ngầm (Anusaya kilesa), và Phân Tâm học gọi là những khuynh hướng xung động (impulsive tendency). Khi chánh niệm tỉnh giác đã thấy ra toàn bộ khuynh hướng xung động này thì toàn bộ khối vô thức trong Bhavanga đã bị hữu thức hóa và những hoạt động vô thức hữu ích và tự nhiên sẽ tồn tại, còn những hoạt động vô thức dưới dạng phiền não ngủ ngầm đều bị chuyển hóa hay vô hiệu hóa.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, thầy dạy rằng: “Khi động dụng thì cẩn thận, chú tâm, quan sát. Khi vô sự, buông ra mọi ý đồ tạo tác để cho thân tâm nghỉ ngơi, thì tánh biết liền sáng suốt, định tĩnh, trong lành”. Vậy thưa thầy, khi con chìm vào giấc ngủ thì có những trường hợp sau:
1. Có khi con biết được phần Vô thức của con vẫn làm việc một cách “máy móc” mà con không làm gì được. Điều này cũng giống như đang tỉnh.
2. Có khi phần Vô thức hoạt động một cách “trí tuệ”.
3. Có khi con ngủ rất sâu chẳng biết gì cả, tất cả các căn đóng lại không còn tiếp xúc gì với 6 trần nữa.
Vậy 3 trạng thái này có giống như đánh mất mình không thưa thầy? Con có cần làm gì thêm để trau dồi sự “biết mình” không? Xin thầy chỉ dạy thêm. Con cám ơn thầy nhiều.
Xem câu trả lời
Chỉ cần trong sinh hoạt hàng ngày (khi thức) con thường chánh niệm tỉnh giác, nghĩa là biết tùy nghi sử dụng những yếu tố sẵn có mà thầy nói lúc động dụng hay lúc vô sự thì khi ngủ tâm tự nó sẽ ổn định trong trạng thái vô thức mà con không cần làm gì cả. Tùy theo từng giai đoạn của một giấc ngủ cạn hay sâu mà con có thể “biết” hay không biết hoạt động của vô thức trong Bhavanga. Thực ra, khi biết cũng không phải là cái biết của ý thức mà là bằng hoạt động máy móc của ý giới, nên biết mà cũng không làm gì được là phải. Vô thức hoạt động theo quy trình tự nhiên của định luật tâm (citta niyama), một chức năng âm thầm của tánh biết ở trạng thái không ý thức nên không thể nói là trí tuệ hay không trí tuệ. Nhưng khi tâm con đã hoàn toàn trong sáng không còn phiền não ngủ ngầm nữa thì vô thức cũng trở thành tâm thanh tịnh sáng suốt (bạch tịnh thức). Con chỉ đánh mất mình khi tâm vọng niệm, tạp niệm hay thất niệm, chứ lúc ngủ có ý niệm “mình” đâu mà mất hay còn? Trong giấc chiêm bao thì vì có “ý thức trong mộng” nên mới có ý niệm mất mình ảo mà thôi.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy.
Từ trước đến giờ con vẫn thường nghe thầy hoặc nhiều Tăng Ni khác nhắc đến 6 căn tiếp xúc với 6 trần, thí dụ như mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh…, nhưng con chỉ hiểu vậy thôi. Chỉ mấy hôm nay con mới thực sự biết được bản năng của mắt là để nhìn, cũng như bản năng của bao tử là để tiêu hóa thức ăn và bản năng
của lý trí là để so sánh, lý luận, kết luận… Chuyện rất đơn giản và dễ dàng như vậy nên con nghĩ là con đã hiểu biết từ lâu, nhưng hóa ra con chẳng biết gì cả! Câu hỏi của con là làm sao thầy giải thích được sự việc mình tưởng là mình đã biết nhưng thật ra mình chẳng biết gì; và có khi mình không biết nhưng mình lại có thể biết?
Câu hỏi thứ hai của con là, sau khi hiểu được chức năng của 6 căn khi tiếp xúc với 6 trần rồi thì có phải mình lắng nghe và học hỏi từ chúng để không bị chúng điều khiển hoặc có thể sử dụng được chúng mà không bị dính mắc? Con đang hiểu biết mù mờ. Xin thầy khai thị cho con hiểu thêm. Thành kính tri ân thầy. chúc thầy sức khỏe thật tốt để dìu dắt chúng con.
Xem câu trả lời
Những hoạt động như mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, và thân xúc (bao gồm sự vận hành theo chức năng và bản năng tự nhiên bẩm sinh của các cơ quan nội tạng như bộ phận tiêu hóa, tuần hoàn, tinh lọc, bài tiết, hô hấp, não bộ, hệ thống gân cơ và thần kinh v.v…) đều diễn ra một cách vô ngã và phần lớn là vô thức, vì dù chúng ta có ý thức được chúng hay không thì chúng vẫn tự hoạt động theo cách riêng của chúng. Đó là toàn bộ hoạt động của sự sống. Con người thường bỏ quên những hoạt động tự động này vì chúng thuộc hệ quả “vô nhân” trong chuỗi nhân quả của đời sống.
Theo Vi Diệu Pháp, Ý có hai loại: ý giới là một một loại hoạt động hậu vô thức nhưng tiền ý thức mà Duy Thức gọi là mạt-na thức thứ 7 và ý thức giới mà Duy Thức gọi là Ý thức thứ 6. Ý giới bao gồm những hoạt động bản năng giữa vô thức và hữu thức, giữ chức năng tiếp thu, so lường, xác định đối tượng mà các thức giác quan nhận được qua thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm một cách máy móc, chưa ý thức rõ rệt. Đó là giai đoạn máy móc “biết mà không biết” của ý giới.
Ý thức cũng có nhiều chức năng khác nhau: Đầu tiên là chức năng ý thức tiếp trợ để xử lý thông tin của tiến trình nhận thức sơ bộ từ các thức giác quan. Trong giai đoạn này tưởng hoạt động tạo ra khái niệm rồi dựa trên những khái niệm đó để nhận biết, nên cái biết này chỉ là giai đoạn tưởng tri. Tiếp theo là ý thức thuần túy làm việc với đối tượng pháp trần nội tại mà ý thức tiếp trợ đã xử lý lúc đầu. Ý thức lúc này nhận biết đối tượng theo thức tri nghĩa là thu nhận kiến thức, kinh nghiệm, tư duy, lý luận, phê phán, quyết định hướng phản ứng hay giải quyết vấn đề. Đến đây ý thức hình thành tư tưởng, quan niệm và khuynh hướng thiện ác cũng bắt đầu xuất hiện. Đây là giai đoạn hữu ý “biết mà có biết” của ý thức qua kiến thức, kinh nghiệm v.v… Cuối cùng là chức năng ý thức trong sáng phản ánh trung thực và trực tiếp đối tượng, không qua tưởng tri, thức tri mà qua trí tuệ thấy biết thực tánh pháp, nên gọi là tuệ tri. Đây là giai đoạn trở về bản chất gốc của tánh biết trong sáng hoàn toàn vô ngã: “biết rất rõ mà dường như không biết” gì cả.
Để có thể dụng được ý thức trong sáng này trong đời sống hàng ngày thì con phải thường (tinh tấn) trở về trọn vẹn với chính mình (chánh niệm) và buông hết mọi ý đồ của bản ngã để tâm (tánh biết) trong sáng hồn nhiên (tỉnh giác). Lúc đó, hễ vô sự thì tâm tự sáng suốt, định tĩnh, trong lành; hễ hữu sự thì tâm tự ứng ra thận trọng, chú tâm, quan sát để tùy nghi tiếp xử đối tượng. Đó chính là lúc lục căn thanh tịnh vậy