Thưa Thầy, những lúc rãnh rỗi (thọ xả), con thường hay khởi lên ý muốn làm cái gì đó cho vui như xem phim hay rủ bạn bè đi uống cafe,… thay vì làm những việc hữu ích hơn. Lúc đó con cũng biết đó là dục ái nhưng con vẫn cứ thực hiện theo ý muốn đó. Xin Thầy chỉ cho con, con vẫn cứ để như vậy và sáng suốt quan sát nó hay con phải làm sao?
Con xin cảm ơn Thầy !
Xem câu trả lời
Làm sao là chuyện của con chứ không phải chuyện của thầy, sao con lại hỏi thầy? Khi con chưa thực sự thấy rõ bản thân con và vấn đề của con thì dĩ nhiên con vẫn chưa thoát khỏi nó. Con chỉ mới “biết” nó qua kiến thức của cái ngã lý trí mong muốn giải quyết, chứ chưa thực “thấy” sự sinh diệt, vị ngọt và sự nguy hại của nó một cách toàn diện bởi thân chứng. Vậy con không cần “biết” mà chỉ cần “thấy” và “thực chứng” vấn đề của con thì nó sẽ tự chuyển hoá mà con khỏi nhọc công giải quyết.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy, người Phật tử còn sống trong đời thường thì giữ tâm thế nào cho đúng khi đứng trước vấn đề tình dục? Thưa Thầy, tâm ham muốn tình dục có phải là trở ngại lớn nhất cho người tu không? Khi còn mắc kẹt với vấn đề tình dục thì đường tu sẽ bị thối chuyển đúng không?
Thưa Thầy, khi còn kẹt vào vấn đề này thì con phải làm sao để đặt xuống, khắc phục tình trạng đó?
Con vẫn biết vấn đề này rất khó nói nhưng con nghĩ chắc nhiều người như con cũng còn bị kẹt vào, mong Thầy khai mở.
Điều này thầy đã trả lời nhiều lần rồi tại con không theo dõi thôi. Tình dục (kāma chanda) không phải chỉ là quan hệ nam nữ mà bao gồm cả mắt tai mũi lưỡi thân tham ái đối với sắc thanh hương vị xúc nên được gọi là ngũ dục. Đây là vấn đề toàn bộ chứ không phải chỉ cục bộ trong quan hệ nhục dục của nam nữ thôi. Và đây cũng là tính cách chung của cõi Dục Giới.
Không thể vượt qua ngũ dục bằng cách phê phán, đè nén, trốn tránh hay buông theo chúng mà phải thấu hiểu sự vận hành cùa chúng. Thực ra sự tiếp xúc giữa căn và trần là bản năng tự nhiên, tự nó không có tội, nhưng tội là do cái ta tư tưởng tạo ra. Nếu con biết lặng lẽ quan sát bản năng tình dục mà không để tư tưởng xen vào kiểm duyệt hay khuyến khích thì nó không trở nên phức tạp hay rối loạn như con tưởng. Vì vậy một vị Thánh Tu Đà Hoàn vẫn có vợ, vẫn sống trong ngũ dục mà vẫn không rơi vào tội lỗi, sa đọa.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Nam Mô Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Đầu năm mới, con kính chúc thầy thân tâm an lạc, Phật sự viên thành.
Thưa thầy, thầy có thể chỉ cho con một số cách để đối trị với sắc dục không ạ. Con cảm thấy nó thường hay quấy nhiễu con khiến con đôi khi mất sự sáng suốt. Con xin chân thành cảm ơn thầy ạ.
Sắc dục bao gồm sự tham ái trong sắc, thanh, hương, vị, xúc chứ không riêng một lãnh vực nào. Vì vậy cần nhận thức rõ sự tiếp xúc giữa căn và trần để thấy sự sinh khởi của các dục như thế nào. Dục chủ yếu sinh từ tư tưởng (dục tưởng), vì vậy nếu có chánh niệm tỉnh giác trong khi mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh,… thì có thể thấy được nhân duyên, sự sinh diệt của dục. Và khi tâm thấy rõ sự sinh, diệt, vị ngọt và sự nguy hại của dục thì mới có thể xuất ly khỏi các dục ấy.
Tư tưởng có 2 loại là dục tưởng và ly dục tưởng. Vì vậy về phương diện đối trị thì có thể sử dụng ly dục tưởng để đối trị dục tưởng. Dục tưởng liên hệ đến tịnh tướng nên ly dục tưởng là quan sát hay tư duy đến tính chất bất tịnh của đối tượng thì sẽ đối trị được dục tưởng.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con chào thầy.
Thầy ơi, thầy có thể chỉ cho con những phương pháp đoạn trừ sự luyến ái sắc dục (sắc đẹp, giọng nói, hương vị, sự xúc chạm của người nữ) được không ạ?
Con xin cảm ơn thầy.
Xem câu trả lời
Khi tâm con rỗng lặng trong sáng, không bị tư tưởng chi phối nữa thì thoát được sắc dục.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, cho con hỏi, trong Phật giáo vấn đề tình dục nói chung có bị coi là tội lỗi hay không? Nếu một người thường có mặc cảm về vấn đề tình dục của mình thì có thể sám hối, xưng tội hay trì chú để xoá bỏ tội lỗi đó hay không? Con xin cám ơn thầy.
Đây quả là vấn đề tế nhị mà mỗi tôn giáo có cách nhìn khác nhau. Có một số tông phái Phật giáo và một số tôn giáo chủ trương tình dục cũng là một trong những pháp tu. Nói như vậy cũng có phần đúng khi hiểu chữ tu theo nghĩa là quá trình điều chỉnh nhận thức và hành vi trên đường tiến hóa đến giác ngộ giải thoát. Quá trình này phải trải qua tất cả sự kiện thực tế để thấy được sự sinh khởi, vị ngọt, sự nguy hại, sự đoạn diệt và cuối cùng là thoát ly khỏi sự trói buộc của sự kiện đó. Tham ái chỉ bị chận đứng bởi đau khổ và diệt tận bằng trí tuệ. Sám hối, xưng tội, trì chú hay tha tội chỉ là động tác tâm lý để người làm tội bớt đi mặc cảm mà vươn lên thôi chứ trên thực tế không thật sự có hiệu quả tận gốc. Nhân quả chính là bài học mà Pháp (hay Thượng Đế hiểu theo một vài tôn giáo khác) muốn con người phải trải nghiệm để học ra chính mình và sự thật về cuộc sống, nếu xá tội đi khi chưa thấy ra sự thật thì làm sao con người học ra bài học nhân quả nghiệp báo được.
Giống như cho con đi học mà nó lười biếng không học hành lại còn quậy phá bạn bè, ăn cắp ăn trộm v.v… rồi nó vẫn không lãnh lấy hậu quả nào để sáng mắt ra ngược lại còn được xóa tội hết thì biết khi nào nó mới nên người?
Tội sinh do tâm ý vọng động, ảo tưởng, mộng mơ… vì vậy nếu tâm ý tĩnh lặng thì dục cũng lặng theo. Do đó người ta mới bày ra các phương tiện như niệm Phật, trì chú, xưng tội, sám hối… để tâm dễ tĩnh lặng hơn. Tuy nhiên theo đức Phật thì làm như vậy chỉ là lấy đá đè cỏ mà thôi, nó chỉ giải quyết tạm thời chứ không phải là thông suốt và chuyển hóa vấn đề bằng trí tuệ.
Phải tự mình chiêm nghiệm, thẩm sát hay quan sát thật rõ ràng hành động của thân, của cảm giác, của tâm ý mình trong chánh niệm tỉnh giác để thấy ra đâu là nhân chính đâu là duyên phụ của vấn đề. Đừng mặc cảm tội lỗi cũng đừng dùng bất cứ phương tiện tạm thời nào để trấn áp nó mà phải đối mặt với thực tế để thấy ra nó, ngay từ khi nó mới khởi lên trong tư tưởng (dục tưởng). Nếu qua sự sinh diêt, nhân quả của nó mà học ra được bài học giác ngộ tận gốc (bằng trí tuệ) thì tốt hơn là dồn nén nó vào trong vô thức (bằng các biện pháp tạm thời) để rồi trước sau gì nó cũng bùng lên mạnh mẽ hơn. Chỉ có trí tuệ chánh niệm tỉnh giác mới quán chiếu và hóa giải được tà kiến và tham ái mà thôi. Nên nhớ rằng tất cả pháp đều là bài học để giác ngộ lại chính mình chứ không phải để thuận theo nó hay đối kháng lại nó.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy, làm thế nào để người nam “đoạn tận” tham ái đối với phụ nữ; con có cần quán bất tịnh không; mỗi khi tiếp xúc với phụ nữ đẹp, tâm con không thể sáng suốt, định tĩnh, trong lành được!
Con kính mong thầy chỉ dạy. Con cảm ơn thầy./.
Đơn giản là khi tâm tham ái thì thấy tâm có tham ái, khi tâm không tham ái thấy tâm không có tham ái. Khi nào con thấy đầy đủ, rõ ràng và như thực những diễn biến sau đây thì con mới thoát khỏi được tham ái về giới tính: thấy tham ái về giới tính phát sanh, thấy sự thích thú và say mê trong đó, thấy sự nguy hiểm và khổ đau tận cùng của nó, thấy nhàm chán tâm tham ái, thấy tâm tham ái không còn sinh khởi. Như vậy con mới thật sự thoát ly được tham ái. “Đoạn tận” có nghĩa là không còn sanh khởi nữa, chứ không phải con dụng công loại trừ nó một cách chủ quan đâu. Quán bất tịnh hay thiền định chỉ để tạm thời chế ngự thôi chứ không đoạn tận được dục ái.
Tham ái trong giới tính thuộc về 5 ái gọi là ngũ dục, hay nói chung là dục ái, bao gồm sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái đối với giới tính. Một vị Thánh Tu-đà-hoàn và Tư-đà-hàm vẫn còn dục ái. Bậc A-na-hàm trở lên mới đoạn tận được dục ái. Vậy con đừng có tham vọng đoạn tận khi con chưa đủ trầm tĩnh sáng suốt để thấy mặt mũi thật của nó – từ khi nó sanh cho đến khi nó diệt trải qua những tiến trình như thế nào (đã trình bày ở trên).
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thầy bắt đúng ‘bệnh’ rồi ạ. Đúng là ban đầu tham ái nổi lên chỉ là đối tượng để quan sát, nhưng sau đó do có ‘ý muốn’ vượt qua trạng thái đó nên cái ta xuất hiện. Chính mong muốn của cái ta tạo tác này kéo dài sự hiện diện của tham ái nên đã gây ra lo âu phiền muộn.
Thưa Thầy, ví như 3 người có bệnh, một người bình tĩnh quan sát bệnh trạng nên thấy ra nguyên nhân của bệnh, dù người đó có chữa lành lành bệnh hay chưa thì cũng đã biết rõ nhân quả và không lo âu sợ hãi nên không phiền não khổ đau. Người thứ hai chỉ ngồi niệm Phật để mong hết bệnh, thì tuy có an tâm hơn nhờ tin vào tha lực nhưng trong sâu xa vẫn còn sợ hãi vì bị thúc bách bởi mong cầu hết bệnh. Người thứ ba loay hoay đi tìm thuốc để trị bệnh, nếu người ấy không trị được bệnh thì càng lo âu sợ hãi và phiền muộn hơn, còn nếu trị được bệnh thì vẫn không biết được nguyên nhân của bệnh để ngăn ngừa nên bệnh có thể tái phát bất cứ lúc nào. Như vậy con đã hiểu chính bệnh giúp cho người bệnh biết rõ mình hơn để có ‘thái độ’ thấy biết đúng chứ không phải bị nhận chìm trong lo âu cầu mong giải quyết ‘trạng thái’ bệnh, phải không thưa Thầy? Con sẽ tiếp tục quan sát để chiêm nghiệm thấy rõ thái độ và trạng thái của mình. Con cám ơn Thầy chỉ bảo.
Đúng rồi, con đã thấy ra được câu trả lời cho câu hỏi trước của con về việc vượt qua tham ái.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy, Đức Phật có nói người tu khó nhất là đoạn tận ‘ái dục’. Để được như vậy khi tham dục nổi lên thì như Thầy dạy: cách bình thường có thể niệm Phật hoặc dùng giới định tuệ (chế định) để tạm ổn định thân tâm, còn cao hơn thì thận trọng chú tâm quan sát. Sao khi con quan sát và biết được đó là do bản ngã khởi sinh, không phải là thật mà nó vẫn hiện diện vậy, thưa Thầy? Trong trường hợp đó nên làm như thế nào để không tạo tác ‘trở thành’ mà vẫn vượt qua được ạ? Con cám ơn Thầy.
Khi tham ái khởi lên thì đó là thái độ tham ái của cái ta ảo tưởng, nhưng khi tỉnh giác có mặt thì thái độ là tỉnh giác còn tham ái đã trở thành trạng thái. Khi tham ái là thái độ thì hữu ngã, nhưng khi tham ái là trạng thái thì vẫn là vô ngã. Nếu thái độ tỉnh giác còn là “ta tỉnh giác” thì mới xem trạng thái tham ái là “ta tham ái”, còn nếu thái độ tỉnh giác là tánh biết tự nhiên vô ngã thì đâu còn ái để đặt thành vấn đề trạng thái tham ái hiện diện hay không hiện diện? Đoạn tận ái dục là đoạn tận thái độ ái dục, chứ không phải đoạn tận trạng thái ái dục.
Đơn giản là trong quan sát chỉ có quan sát chứ không có người quan sát nên mới gọi là minh sát (vipassanā). Tham ái hiện diện thì thấy tham ái hiện diện, tham ái không hiện diện thì thấy tham ái không hiện diện, đó mới là minh sát. Nhưng nếu trong quan sát còn có người quan sát thì con không thấy thực tánh của tham ái như nó là mà chỉ muốn làm thế nào để vượt qua tham ái, và ý muốn vượt qua này cũng chính là thái độ tham ái. Vậy không phải vượt qua tham ái mà vượt qua người quan sát tham ái. Trong quan sát không có người quan sát thì liền thấy tham ái chính là tánh không.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Sư, con là Phật tử được duyên may học Pháp và đã có thể áp dụng được một ít vào cuộc sống, khi bình thường thì con hành sự mọi việc rất điềm tĩnh, nhưng đôi lúc không kiềm chế được bản thân, nhất là khi dục vọng trổi lên! Nhiều lúc con thấy mình trong lúc đó như loài quỷ! Con xin sám hối với Sư, mong Sư cho con lời khuyên để đoạn trừ bớt dục vọng và kiềm chế được bản ngã! Con ước gì mình được như thầy Ananda, được đức Phật thấy biết kịp thời ngăn lại và cho 1 bài Pháp để không bị nhấn chìm vào ái dục! Xin cảm ơn Sư!
Nhục dục là từ ám chỉ sự ham muốn trong sắc, thanh, hương, vị, xúc (ngũ dục) nói chung, nhưng người ta thường hiểu ngầm là “dâm dục”. Ngũ dục là bản năng tự nhiên của loài người nói riêng và cõi dục giới nói chung, tùy theo mức độ của mỗi cõi, từ Địa Ngục cho tới cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên. Thậm chí đến các bậc Thánh Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm vẫn chưa hết được ngũ dục.
Muốn xuất ly một pháp không phải chỉ tìm cách đối trị nó mà phải thực sự thông suốt được nó. Giống như bệnh, người ta chỉ dùng thuốc để loại trừ bệnh trạng, nhưng chính yếu là phải loại trừ được nguyên nhân sinh bệnh. Nhưng muốn loại trừ nguyên nhân sinh bệnh nói chung thì khởi đầu phải thông suốt được nguyên nhân, hậu quả, và toàn bộ tính chất của mỗi căn bệnh nói riêng. Qua chiêm nghiệm khám phá từng căn bệnh người đó thấy rõ nguyên nhân của toàn bộ bệnh tật và đồng thời cũng biết thế nào là không bệnh. Bởi vì một người đã biết rõ thế nào là không bệnh thì người đó có thể chấm dứt toàn bộ bệnh chứ không cần phải đối trị từng căn bệnh một nữa.
Nhục dục phát sinh từ nhiều nguồn. 1) Nguồn kích thích từ bên ngoài (do hoàn cảnh, sự thân cận). 2) Nguồn kích động từ sinh lý (do tác động của các tuyến nội tiết, đơn giản như đói thì thèm ăn v.v.). 3) Nguồn kích hoạt của tưởng (phần lớn dục do tưởng sinh). 4) Do cả ba nguồn kích thích trên. Chủ yếu ở đây nếu một người có tâm rỗng lặng trong sáng nghĩa là thường chánh niệm tỉnh giác, biết rõ hoạt động của thân, của cảm giác, cảm xúc, tư tưởng v.v.. thì có thể kiểm soát được sự sinh diệt của dục. Điều quan trọng không phải là tìm cách diệt nó mà là học ra từ đó bản chất vô thường, khổ, vô ngã của nó thì mới có thể thoát khỏi nó. Nói chơi mà cũng rất thực là “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ”, chưa thấy khổ đến tận cùng chưa thoát được dục đâu! Đó là vai trò tuyệt vời của cái khổ giúp con người học ra bài học giác ngộ giải thoát.