Câu hỏi:
Bạch sư Xin sư phân biệt cho con thế nào tánh và thức.
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiDanh sách các chủ đề phổ biến
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiSáu thức cũng ở trong cùng một tâm. Sáu thức sinh diệt tuỳ duyên, tuỳ đối tượng của chúng nhưng tánh của tâm không sinh diệt. Bản chất của tâm là biết pháp nhưng có hai chức năng: Tướng biết bao gồm 6 thức chỉ là phần mặt nổi rất giới hạn bên ngoài, còn tánh biết vừa hỗ trợ cho tướng biết vừa hoạt động ngấm ngầm trong cả tiềm thức và vô thức khi 6 thức không hiện diện.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lời– Có cái thân phục tùng tâm, có cái thân không phục tâm do đó con phải biết muốn điều gì được, điều gì không được.
– Nếu con sống thường biết mình thì tất cả Tứ Niệm Xứ, Vi Diệu Pháp đều có trong đó, con không cần học ở bên ngoài.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiThầy thấy có bộ sách Cẩm Nang Vi Diệu Pháp ứng dụng trong đời sống hàng ngày của ngài U Sīlânnda đã được dịch và phát hành ở Chùa Bửu Long, con nên thỉnh về đọc.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiÝ thức và ý căn vẫn thuộc về danh nhưng ý vật thuộc về sắc. Từ căn (indriya) chỉ khả năng hơn là chỉ cơ sở vật chất. Từ vật (vatthu) mới chỉ cơ sở vật chất (vật sở y).
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiTiềm thức trong Pāḷi Abhidhamma gọi là Bhavaṅga, còn trong Duy Thức Học gọi là A-lại-da thức, chỉ là một phần của Tâm. Tâm có hai phần, phần tiếp xúc để nhận thức bên ngoài là 6 thức, phần tiềm tàng bên trong là Bhavaṅga hoặc A-lại-da. Tâm nói chung còn là thể biết, cũng gồm hai phần là tánh biết và tướng biết. Khi tánh biết và tướng biết hợp nhất trong bản chất thanh tịnh trong sáng thì gọi là Chân Tâm.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiNếu con học về môn tâm lý thì nghiên cứu Vi Diệu Pháp là rất thích hợp. Con nên nghe một số bài giảng của Ni Cô Tâm Tâm vì cách giảng của cô nghiêng về tâm lý thực tế trong đời sống, sau đó con đọc những sách Vi Diệu Pháp sẽ dễ hiểu hơn..
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiThiền chính là học ra lộ trình tâm bằng cách soi sáng ngay nơi chính hành trình đang hoạt động của nó chứ không học tâm trên sách vở, chữ nghĩa, vì không có ngôn ngữ nào diễn tả nổi diễn biến của tâm như nó đang là. Học quá rành Vi Diệu Pháp hay Duy Thức mà không thấy tâm mình thì lý trí thịnh mà tuệ giác suy, vì kiến thức nhiều quá sinh nghi nên được gọi là sở tri chướng, một trong những chướng ngại của thiền (xem 10 phiền não của thiền tuệ). Học cho biết đại khái để không chấp vào quan niệm sai lầm về tâm thôi mà không lệ thuộc vào chữ nghĩa thì may ra không thành sở tri chướng.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiTại sao phải giải thích lệ thuộc vào Vi Diệu Pháp và Duy Thức mà không trực nhận sự thật ngay đó, có thể vì lệ thuộc vào sở tri mà không trực nhận được sự thật nên mới cần hệ quy chiếu? Sự thật không phụ thuộc vào bất cứ hệ quy chiếu nào, bởi vì nó chỉ như nó đang là chứ không tuân theo quan điểm của các học thuyết. Học thuyết cố gắng mô tả sự thật, nhưng ngôn ngữ không thể lột tả được sự thật uyển chuyển sinh động. Khi con phải tìm hệ quy chiếu thì con đã đánh mất sự trọn vẹn tỉnh thức.
Tâm trọn vẹn tỉnh thức với thực tại gọi là chánh niệm tỉnh giác, khi con không trọn vẹn tỉnh thức gọi là mất chánh niệm tỉnh giác. Hiệu ứng của chánh niệm tỉnh giác và mất chánh niệm tỉnh giác thì con đã nhận ra phần nào qua trải nghiệm thực, vì vậy tốt nhất là nên tiếp tục khám phá bằng trực nhận hơn là mất thời gian đối chiếu với bất cứ quan điểm nào. Trực nhận sự thật bằng chánh niệm tỉnh giác Duy Thức gọi là hiện lượng, Vi Diệu Pháp gọi là tuệ tri. Nhận thức qua lý trí Duy Thức gọi là Tỷ Lượng, Vi Diệu Pháp gọi là thức tri. Nhận thức qua tưởng tượng Duy Thức gọi là phi lượng, Vi Diệu Pháp gọi là tưởng tri.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lời