Câu hỏi:
Bạch Thầy, xin Thầy cho con biết tình thương của Đức Phật khác với tình thương của chúng sanh ở điểm nào?
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiDanh sách các chủ đề phổ biến
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiPhật chẳng thương ai, chẳng ghét ai
Phật cùng chúng sanh vốn chẳng hai
Chúng sanh luyến ái tâm nhân ngã
Chư Phật từ bi tánh bản lai.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiTu tuệ có hai loại: Một là phàm tuệ xuất phát từ lý trí thì hữu ngã, thí dụ các phương pháp thiền chế định. Hai là giác tuệ xuất phát từ tánh biết thì vô ngã, thí dụ trí tuệ thấy thực tánh chân đế.
Tu phước cũng có hai loại: Một là loại phước hữu lậu thì hữu ngã, thí dụ giúp đỡ người khác với tâm cầu danh hoặc cầu lợi. Hai là loại phước vô lậu thì vô ngã. Thí dụ giúp đỡ người khác với tâm vô ngã vị tha.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiVipassanā-ñāna là tuệ thấy thực tánh chân đế (kiến tánh), vì vậy trí tuệ chính là thận trọng, chú tâm, quan sát (tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác hoặc liễu liễu thường tri) thấy mọi sự vật trung thực như nó đang là. Khi tuệ tri như thế tâm không bị sân, hại, ganh và chấp xen vào. Không sân tức là từ, không hại tức là bi, không ganh tức là hỷ, không chấp tức là xả. Vậy từ bi hỷ xả luôn đi cùng trí tuệ, nói cách khác có trí tuệ thì liền có từ bi hỷ xả một cách tự nhiên. Trí tuệ và từ bi hỷ xả này đều xuất phát từ tự tánh của tâm (tánh biết) nên hoàn toàn vô vi, vô ngã.
Tuy nhiên, vẫn có loại trí tuệ và từ bi hỷ xả hữu vi, hữu ngã do lý trí và ý chí của ý thức con người cố công luyện tập mà có, nên còn hữu hạn trong tam giới, loại này tuy cũng đem đến an lạc nhưng do còn hữu vi, hữu ngã nên vẫn chỉ là sở tri, sở đắc và vẫn trở thành sở tri chướng và phiền não chướng làm trở ngại cho vipassanā-ñāna (kiến tánh) thật sự (xem 10 chướng ngại của thiền vipassanā). Lúc đầu do hành giả tưởng có thể rèn luyện tu tập để đạt được những sở tri, sở đắc ấy, không biết rằng Phật đã dạy rất rõ ràng:
Quả thật điều bất lợi
Người ngu sinh sở tri (hoặc sở đắc)
Hủy phần sáng của mình
Tự chẻ đầu chính nó. (Dh. 72)
(Sở tri, sở đắc thuộc hữu vi hữu ngã làm phân tán tri và hành nên nói là chẻ đầu làm hai. Phần sáng của mình chính là trí tuệ và tâm vô lượng vốn sáng chói (pabhassara citta) có sẵn trong tự tánh mỗi người)
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiChư Phật từ bi hỷ xả với chúng sinh vì làm sao một người đã giác ngộ Sự Thật thấy chúng sinh chưa giác ngộ lại có thể sân với họ được? Không sân tức là từ. Sao lại có thể hại họ được? Không hại tức là bi. Sao có thể ganh tỵ với họ được? Không ganh tỵ tức là hỷ. Sao có thể chấp họ được? Không chấp tức là xả. Vậy chư Phật mà không từ bi hỷ xả với chúng sinh mới là lạ, phải không con?
Tất cả chúng sinh đều do duyên hợp và tan là đúng, nhưng duyên ở đây bao hàm cả nhân và duyên tức trong đó có duyên tự nhiên (không chủ ý) như định luật vật lý, hóa học, thiên văn, địa lý, sinh học, tâm lý khách quan v.v…; và nhân tạo tác (có chủ ý) như định luật về nghiệp (tâm lý chủ quan) do vô minh ái dục mà thành. Qua nhân tạo tác mà hình thành bản ngã chúng sinh trong tam giới, nên phải trải qua biết bao hiện tượng vô thường, khổ não mới hóa giải được cái ngã tạo tác đó, đồng thời cũng qua đó mà giác ngộ. Chính vì chúng sinh đã giác ngộ hiểu thấu nhân duyên sinh và nhân duyên diệt đó nên mới có từ bi hỷ xả với tất cả chúng sinh chưa giác ngộ.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lời1) Đừng cố gắng “tích cực miên mật” quá sức, vì đó chỉ là ý đồ của bản ngã tham sân si đang muốn xác định và duy trì sự hiện hữu của nó! Con cứ tùy theo khả năng mà thận trọng chú tâm quan sát thân tâm cảnh, càng tự nhiên càng tốt và được chừng nào hay chừng đó, vội vàng chỉ tạo thêm áp lực tâm lý mà thôi. Giống như mặt trời cứ lên từ từ nhưng lên tới đâu xóa tan bóng tối tới đó, chứ con muốn mặt trời phải đúng ngọ ngay làm gì cho mệt.
2) Chính nhờ có vọng tâm mà tánh giác mới hiển lộ, nếu không được vọng tâm thử thách thì tánh giác làm sao thể hiện được khả năng giác ngộ của mình? Khả năng đó biểu hiện qua thấy biết, vì vậy an không phải là cái an của những đợt sóng tâm mà chính là cái an của tánh giác thấy biết những đợt sóng tâm ấy. Sóng sinh diệt diệt sinh là chuyện bình thường, chủ yếu là có thấy ra tánh nước vẫn an. Cũng vậy, tâm sinh diệt là đương nhiên, quan trọng là tánh thấy có đủ an để thấy sự sinh diệt ấy hay không. Con xem trọng việc an tâm mà xem thường tánh thấy nên mới bị bất an là phải.
3) Đạo sư hay kinh điển không phải là vấn đề, vấn đề là con thấy cái nào đúng cái nào sai, như chính đức Phật dạy trong Kinh Kalama. Đừng vội tin mà phải tự mình chứng nghiệm Sự Thật. Dù đạo sư đã chứng ngộ tới đâu hay kinh điển có hay cách mấy thì con vẫn phải tự mình giác ngộ chân lý ở nơi con, “không nương tựa, không nắm giữ điều gì bên ngoài“. Do đó Kinh Dhammapada đã dạy:
Tự mình nương chính mình
Không nương nhờ ai khác
Khi tự mình thuần tịnh
Là chỗ nương hy hữu.
4) Không phải riêng chuyện ăn uống mà bất cứ việc gì cũng đừng vội kết luận một chiều, vì như vậy chỉ tự mình trói buộc, chấp trước và trơ lỳ không còn thông minh tinh tế trong từng tình huống khác nhau. Mỗi tình huống cuộc sống đều khác nhau nên con đừng đem một công thức đúng sai nào áp dụng cho mọi trường hợp. Phải luôn luôn thận trọng chú tâm quan sát để ứng xử tinh tế và thích nghi với từng hoàn cảnh mới là giới luật đích thực, chứ không nên quy chiếu vào một hệ thống giáo điều nào, giới luật như thế mới sinh định, sinh tuệ. Còn nếu con phân vân lo lắng như thế thì làm sao định tuệ phát sinh.
5) Có thể con có tâm từ, tâm bi đối với những người thua kém mình, nhưng chưa có tâm hỷ, tâm xả đối với những người hơn mình. Nghịch lại với tâm hỷ là tâm tật đố, ganh tỵ tức không muốn ai hơn mình. Còn nghịch lại với tâm xả là tâm cố chấp, nhất là chấp ngã, nên dễ sinh lòng tự cao ngã mạn, chỉ muốn chiếu cố đến người thua mình nhưng lại ganh tỵ với người hơn mình. Khi còn bản ngã thì ai cũng vậy, không phải riêng con. Vì vậy, chủ yếu là thấy ra cái gốc bản ngã còn ganh tỵ chỉ là cái ngọn mà thôi.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiCâu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiYêu thương đúng nghĩa gồm có 4 đức tính: Từ, bi, hỷ và xả. Từ là không sân: tâm mát mẻ, hiền hòa với mọi người nên không sân với bất cứ ai. Bi là không hại: tâm cảm thông với nỗi khổ của mọi người nên không muốn hại bất cứ ai. Hỷ là không đố kỵ: tâm vui với niềm vui của mọi người nên không ganh tỵ với ai. Xả là không cố chấp: tâm an nhiên bình thản trước mọi người nên không chấp trước, không ôm giữ điều thị phi của ai. Như vậy tình yêu là bao la không giới hạn, không có ta với người.
Tình yêu thương như vậy nảy nở trong sự tương giao hài hòa tự nhiên – vô điều kiện, không phải là tình luyến ái trong mối quan hệ buộc ràng – có điều kiện giữa đôi bên. Trong bản chất mọi tình yêu vốn giống nhau, chỉ khác ở chỗ trong tương giao tự nhiên thì yêu thương không có sự dính mắc, còn trong mối quan hệ không tự nhiên thì yêu thương có sự ràng buộc nên gọi là luyến ái. Yêu thương thật sự chỉ có khi có trí tuệ, nếu chỉ có lý trí và tình cảm thì tình yêu sẽ là sự uyến ái, dính mắc mà thôi.
Trong sự tương giao thì tình yêu không cần gắn kết, vì cố gắng gắn kết chính là đang thiết lập mối quan hệ ràng buộc mà trong đó thì không thể có tình yêu, chỉ có tình luyến ái, và tình luyến ái thì không bao giờ bền vững. Lão Tử nói: “Tình thâm nhược đạm” tình sâu thì dường như cạn. Chính cái tâm bình thản lợt lạt như cạn đó mới là yếu tố bền vững nhất của tình yêu. Loại bỏ những buộc ràng thì tình yêu mới bắt đầu nở nụ. Thầy có bài thơ xin tặng con:
Chúa ngự giữa lòng ta
Cho tình yêu nở nụ
Trái tin hằng hà sa
Xin tặng cõi Ta-bà!
(Chúa ở đây có nghĩa là sự bừng ngộ chân lý).
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiCâu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lời