Câu hỏi:
Bạch sư cho con hỏi như thế nào là thiền định, như thế náo là thiền tuệ. Chánh niệm tình giác như thế nào là đúng?
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiDanh sách các chủ đề phổ biến
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiCon nên đọc và nghe nhiều hơn những điều đã được giảng trong trang web này. Từ từ rồi con sẽ thấy ra hết thế nào là định, là tuệ, là chánh niệm tỉnh giác, chứ chỉ một vài câu định nghĩa cũng không nói được gì đâu. Thầy tặng con bài kệ này để chiêm nghiệm.
Định là tâm không loạn
Tuệ là tâm sáng soi
Chánh niệm tâm tự tại
Tỉnh giác tánh không mê.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiCâu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiThiền của các đạo sĩ thuộc về thiền định sắc và vô sắc giới, định này có chứng nghiệm tâm linh cao nhất trong tam giới. Nhưng khi Bồ-tát Sĩ-đạt-ta chứng đắc các bậc thiền định này thì vẫn thấy còn bị dính mắc trong sắc ái và vô sắc ái nên vẫn còn vô minh. Sau đó Ngài tu khổ hạnh, nhưng vẫn không diệt được vô minh ái dục. Ngài nhớ lại lúc còn thơ ấu đi theo vua cha xem lễ hạ điền, với tâm rỗng lặng trong sáng của trẻ thơ, Ngài thấy tất cả mọi sự kiện diễn biến một cách trong sáng hồn nhiên, không ảo tưởng, không có cái ngã phê phán, kiềm duyệt… nên đã thấy mọi sự hoàn toàn trung thực. Ngài phát hiện ra tâm thiền tuệ, vượt ngoài ý niệm của cái ta ảo tưởng và ngay tối hôm đó với tâm hoàn toàn thanh tịnh trong sáng, vô ngã Ngài đã chứng ngộ thực tánh chân đế, rốt ráo Niết bàn.
Mục đính của thiền định chỉ chứng đắc những trạng thái tâm an chỉ như tầm, tứ, hỷ, lạc ,xả, nhất tâm, tạm thời chế ngự được 5 triền cái nên được an lạc. Còn mục đích của thiền tuệ là thấy ra thực tánh pháp, tức là không còn bản ngã vô minh ái dục để nương tựa, chấp trước, tham ưu điều gì ở đời. Phật giáo vẫn chấp nhận thiền định như là pháp hiện tại lạc trú, nhưng đó không phải là điều kiện tất yếu để giác ngộ. Không cần đắc định sắc, vô sắc giới vẫn giác ngộ giải thoát được. Hơn nữa, chánh định khác với tà định. Chánh định là định hướng đến vô ngã, giải thoát; tà định vẫn còn bị trói buộc trong bản ngã vô minh ái dục.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiCái đó còn tùy trình độ nhận thức và tâm cơ của mỗi người. Nếu người chưa vững vàng trong thiền tuệ thì họ thiền định hay niệm Phật cũng tốt. Nếu thiền định hay niệm Phật cũng chưa được vững tâm thì cần sự hộ niệm của chư Tăng Ni Phật tử hay thân nhân trong nhà để giúp họ an tâm hơn cũng được. Nhưng nếu người đã nhuần nhuyễn trong thiền tuệ thì lúc đó chỉ cần chánh niệm tỉnh giác ngay nơi cảm thọ (hoặc thân, tâm, pháp) như nó đang là thì càng tốt hơn nữa. Nếu căn cơ vị ấy đã chín mùi thì ngay nơi cảm thọ đau đớn ấy có thể thực chứng được thực tánh pháp và thậm chí chứng được Đạo Quả Niết-bàn.
Nếu cố định tâm để chống đối lại cảm giác đau đớn thì chỉ tạo ra mâu thuẫn căng thẳng thêm, điều đó chỉ làm cho tâm thêm bất an sợ hãi. Nhẫn nại một tí con có thể chấp nhận cảm giác đau để tâm không nắm giữ hay loại bỏ điều gì thì tốt hơn. Con đừng tính chuyện lúc đó, hãy chánh niệm tỉnh giác trong từng giây phút hiện tại thì lo gì lúc đó phải thế nào! Lo tính chỉ mất thì giờ chánh niệm tỉnh giác trong hiện tại mà thôi.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiCâu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiDo nhầm lẫn giữa thiền TUỆ (Minh Sát) với thiền ĐỊNH (an chỉ) và TÙY NIỆM (niệm Phật…) nên đạo hữu đã sử dụng TẦM + TỨ mà tưởng là đang hành CHÁNH NIỆM + TỈNH GIÁC. Đây là nhầm lẫn rất phổ biến trong giới những người hành thiền hiện nay.
Thiền tuệ chấp nhận mọi hiện tượng diễn biến nơi thực tại thân tâm (thân, thọ, tâm, pháp) làm đối tượng, không thêm bớt, không lấy bỏ, chỉ thấy pháp như nó đang là. Thái độ đó được gọi là chánh niệm, tỉnh giác. Như vậy, trong thiền Minh Sát, khi có một trong 5 triền cái khởi lên thì hành giả lấy đó làm đối tượng của chánh niệm tỉnh giác để thấy thực tánh pháp, chứ không có ý muốn diệt nó đi. Nếu là chánh niệm tỉnh giác thực sự thì chỉ thấy tham đúng thực tánh đang sinh diệt của tham; sân, hôn trầm thụy miên, trạo hối, nghi cũng vậy. Không để tham sân (abhijjhàdomanassa) xen vào sự thấy biết trực tiếp của chánh niệm tỉnh giác, vì vậy cũng không có ý nắm giữ hay loại bỏ điều gì (na kinci loke upàdiyati).
Khi đạo hữu muốn chế ngự 5 triền cái (hôn trầm, nghi, sân, trạo hối, tham dục) thì phải có 5 chi tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm của thiền định. Như vậy đạo hữu đang tu thiền định chứ không phải thiền Minh Sát. Mục đích của thiền đinh an chỉ khi khởi tâm tầm tứ là để đạt được hỷ duyệt, an lạc, nhất tâm, và cuối cùng là an trú trong trạng thái định và xả. Vì tầm tứ và chánh niệm tỉnh giác có tính chất, công dụng và mục đích khác nhau nên hành pháp nào thì phải theo pháp đó, nếu nhầm lẫn yếu tố của 2 pháp hành này thì cả hai mục đích thấy thực tánh của thiền tuệ và an trú nhất tâm của thiền định đều không thể đạt được.
Nếu đạo hữu muốn tâm không bị thất niệm, tạp niệm và vọng niệm (biểu hiện qua 5 triền cái) thì tốt hơn nên tu pháp môn niệm Phật trước. Niệm Ân Đức Phật (Araham, Sammà Sambuddho…) có thể giúp tâm nhất niệm. khi đã nhất niệm thì tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh thì vô niệm, tâm không thất niệm, tạp niệm, vọng niệm (vô niệm) thì mới có chánh niệm. Có chánh niệm thì thấy biết trong sáng phản ánh như thực các pháp, đó là tỉnh giác. Khi có chánh niệm tỉnh giác đúng mức thì liền thấy rõ thực tánh của 5 triền cái. Như vậy, niệm Phật dễ chuyền qua thiền Minh sát hơn là cố gắng an trú trong thiền định.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lời1) Kinh Tứ Niệm Xứ chủ yếu là để hành thiền tuệ. Nhưng trong đó có nhiều đối tượng vừa có thể là đề mục thiền tuệ, vừa là đề mục thiền định, chỉ khác nhau về cách hành mà thôi. Vì vậy mà nhiều người không phân biệt được hai cách hành đã sử dụng những đối tượng này như đề mục thiền định mà tưởng là thiền tuệ. Đó là khi hành giả tách rời hai pháp tu định và tuệ ra riêng theo chế định, nhưng trong pháp hành thiền tuệ thì định và tuệ 2 yếu tính không thể tách rời nhau. Giống như mặt hồ yên thì soi rõ cảnh, mặt hồ động thì cảnh vật tan mất. Trong thiền gọi hai công năng này là tịch và chiếu.
2) Khi một người đắc định an chỉ về hơi thở, mỗi lần người ấy hành vipassanà thì một số trạng thái của định lại xen vào làm phát sinh 10 chướng ngại gọi là phiền não của thiền tuệ (xem Thư Thầy Trò (9) trong Thư Viện – Văn). Để thoát khỏi 10 chướng ngại đó, hành giả phải vào lại hành trình niệm hơi thở trong thiền đinh, nhưng đến giai đoạn nào thì phải dùng thiền tuệ quan sát rõ trạng thái đó để thoát ra, không để đắm vào trạng thái đó (sắc ái, vô sác ái), nên gọi là phép hóa giải thiền định.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiChính vì anh thích định nên nôn nóng muốn thoát ra khỏi tình trạng không định, đó là tâm sân; và mong muốn mau đạt được đinh, đó là tâm tham. Như vậy sự nôn nóng này nuôi dưỡng tham và sân. Sự xung đột giữa tham và sân tạo ra phân vân nghi hoặc; phân vân đưa đến trạo cử phóng tâm, và phóng tâm đưa đến trạng thái mệt mỏi chán nản của hôn trầm. Toàn bộ những điều này làm cho bệnh sân của anh càng gia tăng. Khi sân anh lại cố kìm chế làm cho nó bị dồn nén vào vô thức để chờ dịp bùng ra khi có điều kiện, như khi bị chọc tức chẳng hạn.
Anh nên tiếp tục thận trong, chú tâm, quan sát một cách tự nhiên mọi hoạt động bình thường hàng ngày của thân – thọ – tâm – pháp thì chánh niệm tỉnh giác tự động sung mãn. Khi không làm gì hoặc khi đang làm việc căng thẳng anh nên buông ra cho thân tâm hoàn toàn nghỉ ngơi vô sự một lát. Ngay lúc đó tâm tự phục hồi sự sáng suốt, định tĩnh, trong lành một cách tự nhiên. Nghĩa là giới-định-tuệ được phát huy mà không cần rèn luyện thiền định hay cố gắng tập chú vào vào đâu cả. Thói quen tập chú tâm trên một đối tượng nhất định đã chọn sẵn, tuy có thể giúp định tâm được, nhưng đó là định hữu vi tạo tác của bản ngã, không phải là tâm thực sự an định tự nhiên vô ngã. Thói quen này khiến khi gặp việc gay cấn anh không thích đối diện để thấy ra chính mình mà lập tức trốn vào đối tượng của định để làm chỗ ẩn trú. Nếu khi sân anh thận trọng chú tâm quan sát lại trạng thái đang sân đó thì chính là anh đang hành pháp niệm tâm. Đó là cách trực diện với sự thât để nhẫn nại, từ bi phát sinh ngay đó, đồng thời thấy cơn sân có sinh có diệt, chẳng có gì đáng sợ đáng ghét cả. Không phải nhờ nó mà anh thấy ra chính mình sao? Không thấy ra chính mình làm sao giác ngộ giải thoát được?
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiĐúng là do trước đây do con tu thiền đinh nên có thói quen phải trú vào một trạng thái yên ổn mới được. Nay khi con làm việc thì nhờ thận trọng, chú tâm quan sát vào công việc nên tâm được ổn định, không có vấn đề gì. Nhưng khi không có việc gì để làm con khó buông ra cho thân tâm nghỉ ngơi vô sự được vì con đã có thói quen không làm thì phải định. Bây giờ nếu không làm gì, mà cũng không được an trú trong thiền định nên con thấy tâm trống trải và bất an. Hoặc là muốn làm gì đó để khỏa lấp trống vắng, hoặc là tâm sẽ rơi vào một trong hai trạng thái trạo cử hoặc hôn trầm, nếu không thì cũng tham hoặc sân. Nói vậy là con đã hiểu rồi đó. Thực ra, con chưa thật sự buông, vì buông cái ta lăng xăng xuống thì tâm liền sáng suốt, định tĩnh, trong lành một cách hoàn toàn tự nhiên, nghĩa là vô vi – không tạo tác. Nếu con chưa thật sự buông được thì nên làm một hành động gì đó có tính vô ngã vị tha, để tâm đừng rơi vào trạo cử hoặc hôn trầm, tham hoặc sân. Nhớ là đừng lặp lại thói quen an trú vào thiền đinh như trước đây nữa, trừ phi con buông được thì chánh định và chánh trí sẽ tự đến rất hồn nhiên vô ngã.