Kính thưa Thầy cho con hỏi một việc ạ. Cách đây 4 năm con mới biết đến đạo Phật nhờ các bài giảng của các sư đăng tải trên mạng. Ngày đó con rất ngây ngô nên đã ảo tưởng về khả năng thành Phật nhanh chóng. Con đã đọc rất nhiều trường phái từ thiền, tịnh cho tới mật. Hậu quả là năm 2011 con bị phát bệnh tâm thần phân liệt. Phải đi bệnh viện tâm thần điều trị. Nay bệnh con đã ổn định (vì bệnh này chưa có thuốc điều trị tận gốc). Con vừa lập gia đình tháng vừa rồi. Mỗi ngày vẫn uống thuốc theo chỉ dẫn của bác sĩ. Con nhận thấy mình không tập thiền được nữa vì không có khả năng định tâm. Vậy ngoài thiền ra con có thể tu tập như thế nào ạ? Kính mong thầy chỉ dạy. Từ hồi bị bệnh đến giờ con vẫn đọc Đạo đức kinh và coi đó là kim chỉ nam cho mình. Con đọc như vậy có được không thầy? Mong thầy cho con lời khuyên về con đường tu tập ạ.
Tốt nhất là con đừng hành thiền, mật hay tịnh gì cả. Con thử vào mục Pháp Thoại trang web này nghe thầy nói về ý nghĩa đời sống mà khi con nhận ra được thì lúc đó con sẽ thấy sống bình thường chính là thiền, là đạo. Thầy cũng có viết một cuốn sách về Lão Tử Đạo Đức Kinh, con vào mục Thư Viện đọc thử xem, vì qua đó con có thể tiếp cận được Đạo nơi đức Phật lẫn Lão Tử.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy! Vừa xong trong khi đang nằm nghe pháp thoại, con cảm nhận được sự chú tâm của mình lúc nghe pháp. Lúc đó tự nhiên thân tâm con thấy nhẹ nhàng, sảng khoái và an lạc vô cùng. Con cảm giác rất rõ về toàn thân, hơi thở con trở nên nhẹ nhàng, đầu óc rất tỉnh táo nhận biết các pháp xung quanh. Trước đây khi ngồi thiền và quan sát hơi thở cũng có vài lần con trải qua trạng thái này rồi, hình như nó đến khi tâm con có một sức định. Và có thể con biết đây không phải định do tưởng sinh, bởi lúc đó con cảm thấy rất tỉnh giác.
Hôm nay sau khi quan sát trạng thái này thêm một lần nữa con mới xin được trình pháp lên với Thầy. Con xin Thầy hướng dẫn thêm cho con.
Con thành kính tri ân Thầy!
Sàdhu lành thay! Đó chính là định tự tánh sẵn có trong tâm chứ không phải định tưởng sinh tác thành do rèn luyện của bản ngã. Định này luôn gắn bó với tín, tấn, niệm, tuệ một cách hài hoà chứ không “trụ nhất tưởng” như trong tứ thiền bát định. Chúc mừng con, ít nhất cũng đã thấy được giới định tuệ tự tánh mặt mũi thế nào. Nhớ là đừng cố gắng lặp lại nó, khi con buông xả tự nhiên bình thường nhất thì nó tự đến.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con chào thầy ạ!
Thưa thầy con lại có 1 câu hỏi nữa muốn hỏi thầy ạ!
Thưa thầy khi con ngồi thiền, con vẫn quan sát … đến giai đoạn cơ thể con bắt đầu đau , con vẫn quan sát, đau những điểm nào, những chỗ nào cứ từ từ lên rồi lại diệt, sau đó con tự nhiên không chịu được nữa lúc đó vọng tưởng quấy rầy làm 1 sát na con bị lung lay, rồi con buông lúc đó con vẫn biết nhưng chắc cái định của con hết năng lượng, sau đó con ngồi lại ngay thì cái đau đó không còn. Vậy thưa thầy lấy cái đau để đo định lực có đúng không ạ? Tại vì con đang có câu hỏi mà con chưa thỏa mãn là vì nếu mình sống với tánh biết an nhiên vô sự thì việc thiền hay không thiền thì cũng vậy, ngược lại là tại sao các vị sư thầy ngồi được rất chi là lâu, chắc là do sự rèn luyện chịu được cái đau và không mất đi chánh niệm nên chiến thắng được cái đau và không dính mắc vào cái đau nữa. Và do cái bản ngã lăng xăng tạo tác của con khiến con viết những dòng chữ này cho thầy nhưng con viết trong tâm trạng bình thường an nhiên, vô sự, không dính mắc đó chỉ là con làm chủ được pháp, còn ý nghĩa của câu hỏi là con chỉ hỏi để mình có thêm kiến thức mở rộng tầm nhìn thôi ạ, nhờ thầy đi trước chỉ giúp cho con ạ. Con xin cảm ơn thầy ạ.
Không đau do ngồi lâu quen dần với cái đau không có ý nghĩa gì với thiền cả. Thiền là đau vẫn biết đau mà tâm không đối kháng, không loại bỏ hay chấp nhận. Khi thực sự chánh niệm tỉnh giác thì đau và không đau đều giống nhau trước tâm thấy biết. Một người kiên trì rèn luyện để đến lúc có thể vượt qua cơn đau dễ dàng thì ý chí người đó tăng cao nhưng đồng thời cái ngã cũng tăng cao, đó là cái ngã ý chí chứ không phải định lực, niệm lực hay tuệ lực gì cả. Mục đích của thiền không phải để được an nhiên vô sự (trạng thái) mà là để thấy vô thường, khổ, vô ngã nhưng tâm vẫn an nhiên vô sự (thái độ).
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con chào sư ạ.
Con đã tu thiền quán (tứ niệm xứ, minh sát) được hơn một tuần nay. Con thấy con nhạy bén hơn, khi mọi sự vật hiện tưởng đến với con, con biết nó như thế nào. Nhưng con cảm thấy tâm con phải chạy quan sát cái này rồi cái kia. Chạy lung tung để quan sát nó. Vậy có phải tâm con bị lăng xăng không ạ? Con tu tập mới đầu con thấy đầu con hơi nhức. Chắc vì con tu thiền phải quan sát nhiều nên đau dầu. Vậy có đúng không ạ? Và từ khi tu tập đến giờ con ngủ không được thẳng giấc. Cứ một chút dậy. Trong mơ con có cảm giác suy nghĩ lung tung, con dậy con lại quán và nhận biết chúng. Rồi con lại ngủ. Rồi nhiều lúc con tỉnh dậy vì con mơ những cái không trong sạch, con lại quan sát nó mới ngủ tiếp. Như vậy con tu tập đã đúng hay con bị hoang tưởng sư.
Kinh mong sư chị dạy cho con để con tu tập ạ.
Sadhu sadhu.
Tu như vậy chưa đúng nên mới sinh ra căng thẳng, khó ngủ và khi ngủ mới có nhiều giấc chiêm bao. Trong quan sát con còn cố gắng chủ quan, nghĩa là dụng công quan sát với “cái ngã ý thức” chứ chưa phải là sự quan sát tự nhiên của tánh biết với chánh niệm tỉnh giác rất thoải mái hồn nhiên, không ý đồ, không mục đích, chỉ duy thấy biết mà thôi.
“Cái ngã ý thức” luôn lăng xăng tìm kiếm đối tượng để quan sát, nên mới căng thẳng và dồn ép, trong đó luôn bị đẩy đi bởi ý đồ đàng sau, và bị lôi kéo bởi mục tiêu phía trước. Trong khi minh sát là buông mọi ý đồ thúc đẩy đàng sau và mọi lý tưởng kéo lôi phía trước, chỉ trọn vẹn trong sáng với thực tại đang đến đi tự nhiên, không dụng công kiếm tìm, chọn lựa, hay chạy đôn chạy đáo từ đối tượng này qua đối tượng khác gì cả, vì chỉ phí sức, mất công và tạo nhiều dị ứng (như căng thẳng, mất ngủ, chiêm bao…) Nên vào mục Pháp Thoại trang web này mở nghe những bài giảng hướng dẫn thiền để nắm vững nguyên lý mới hành. Hành sai chỉ mất thời gian điều trị lại rất khó.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy,
Trong một lần nghe pháp thoại của thầy có nói đến việc đạt được Định và sống với định quá lâu cũng không phải là đúng lắm, vì giống như dòng sông mà không chảy thì không còn giá trị của nó nữa.
Con xin thầy nói cho con rõ chỗ này hơn và khi ngồi thiền hàng ngày thì nên như thế nào.
Con cám ơn Thầy
Đức Phật dạy định nhiều sinh trì trệ, khi đề cập đến 5 yếu tố cơ bản của tâm: Tín, tấn, niệm, định, tuệ. Tín nhiều quá sinh tham lam, tuệ nhiều quá sinh nghi hoặc, tấn nhiều quá sinh dao động, định nhiều quá sinh trì trệ. Niệm là trọn vẹn với thực tánh nên không thể thiếu không thể dư. Tứ thiền bát định của ngoại đạo thuộc 2 kiết sử sắc ái, vô sắc ái, chỉ đạt được đại ngã như Phạm Thiên thôi, không phải là chánh định trong Bát Chánh Đạo. Định trong Bát Chánh Đạo luôn kết hợp hài hoà với Giới và Tuệ chứ không bao giờ quá được. Chánh định thuộc vô ngã nên không thể đem cái ta ra hành được, khi tâm hoàn toàn thư giãn buông xả không còn “cái ta hành” thì nó tự đến, như nước để yên thì tự lắng đọng vậy. Đó là cách hành thiền định mà không hành gì cả.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy, con nghe lại bài pháp ngày thứ 1 của khóa thiền thứ 4, Thầy có nói là khi có dịp, Thầy sẽ giảng rõ những loại Thiền Định nào làm cản trở và hỗ trợ cho Thiền Tuệ. Con rất muốn nghe bài pháp này, và con nghĩ rằng hiện nay cũng không ít người đang nhầm lẫn, có xu hướng thiên về thiền định mà chưa phân biệt được loại thiền định nào cản trở cho sự giác ngộ. Kính mong Thầy hoan hỷ sớm giảng bài pháp đó khi có dịp. Con xin cảm ơn Thầy!
Xem câu trả lời
Trong những khóa sau đó thầy đã có giảng rồi và trong cuốn Sống Trong Thực Tại, chương 8 thầy cũng đã phân biệt các loại thiền định rồi. Thiền định nào đạt được nhờ nỗ lực tạo tác của bản ngã đều trở ngại cho thiền tuệ, dù có thể đạt được thần thông, nó thường đi kèm với tà kiến, trong 62 tà kiến mà đức Phật nói đến hầu hết đều xuất phát từ thiền định, và đọa địa ngục vô gián như Devadatta cũng vì thiền định, thần thông. Chỉ có thiền định nào xuất phát từ tâm buông xả, vô ngã, vô vi mới là chánh định, định này không thể thiếu trong thiền tuệ.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính Thưa Thầy!
Xin Thầy giúp con hóa giải một số chướng ngại trong công phu tu tập mà con vẫn chưa vượt qua được.
Thỉnh thoảng con lại rơi vào trạng thái ngưng hơi thở mấy phút. Lúc đó con thấy thân tâm vẫn nhẹ nhàng an lạc. Hình như hơi thở khắp nơi thân, con không biết như vậy có đúng không nên tác ý cho hơi thở trở lại bình thường. Sau này con phải làm gì khi gặp trạng thái này ạ?
Có những lúc tâm con vắng lặng nhưng lại xuất hiện hôn trầm, tuy nhẹ nhưng đủ để phá hỏng môt thời dụng công. Con thấy chỉ cần để một niệm khởi lên là mất hôn trầm ngay và tâm cũng mất luôn sự thanh tịnh. Xin Thầy chỉ cho con phá loại hôn trầm này.
Kính xin Thầy hoan hỉ giúp con. Con thành tâm cung kính đảnh lễ Thầy!
1) Về thiền định thì hiện tượng hơi thở nhẹ dần và không thấy hơi thở nữa là đang vào định sâu dần, như vậy là tốt chứ không sao. Nhưng nếu không muốn để yếu tố định quá mạnh thì nên ý thức hơi thở trở lại để yếu tố tuệ mạnh hơn là tốt.
2) Có thể đó là hôn trầm, cũng có thể đó là một loại định mà trong đó cái biết mất dần, tuy cũng là định nhưng không tốt lắm. Chỉ khác nhau là khi ra khỏi định mà thấy dã dượi là hôn trầm, còn nếu thấy nhẹ nhàng thoải mái thì đó là định. Phá hôn trầm thì con chú ý quan sát đối tượng cho rõ hơn là được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy, trong quyển ‘Thiền Phật giáo Nguyên Thuỷ và Phát triển’ ở phần đầu Thầy viết về thiền định, phần sau là thiền tuệ. Phần thiền tuệ thì con biết cách ứng dụng bằng tánh biết để tu như lời Thầy dạy, nhưng phần thiền định thì con chưa biết ứng dụng làm sao, vì nếu con dùng để mục để quán thì trong con đã xác định mục đích như là đạt được quang tướng, tứ thiền bát định rồi. Có phải phần thiền định chỉ dùng cho những ai còn nhiều tham muốn tu tập tạm thời để dễ đoạn trừ như dùng đề mục quán tử thi, sau đó phải chuyển qua tu tập thiền tuệ đúng hướng phát triển tự nhiên phải không Thầy? Hay là trong Phật giáo tuy liệt kê ra thiền định và tuệ nhưng cách ứng dụng tu tập vẫn là thiền tuệ phát triển chánh định tự nhiên. Vì con muốn dùng pháp quán 32 thể trược thuộc thiền định nhưng lại băn khoăn là quán như vậy thì trái với cách tu trong sáng, định tĩnh, trong lành rồi. Kính mong Thầy chỉ dạy cho con.
Tuy là nói thiền tuệ để phân biệt với thiền định ngoài đạo Phật, nhưng thực ra trong thiền tuệ đã có chánh định rồi. Nếu con tu đúng thiền tuệ thì giới định tuệ đều được phát huy viên mãn. Những người ngoại đạo trước đây đã có tu tứ thiền bát định khi theo Phật thì họ vẫn được giữ các mức định này nhưng không được đắm chìm trong hỷ lạc và các loại thần lực. Chính thiền tuệ giúp họ chuyển hóa các định đó thành chánh định trong giới định tuệ, vì có chánh định thì có trí tuệ, còn tứ thiền bát định vẫn còn trong vô minh ái dục nên thường chỉ cản trở trí tuệ mà thôi. Vì vậy chấp định, chấp không thì vẫn còn nương tựa (nissita), còn bám víu (upadāna) vào sinh, hữu, tác, thành không phải là con đường xả ly, ly tham, đoạn diệt trong không, vô tướng, vô tác, vô cầu.
Đức Phật dạy tâm vốn rỗng lặng trong sáng (pabhassara citta), còn các phiền não tham sân si chỉ là khách vãng lai (āgantuka). Thầy phát hiện tâm rỗng lặng trong sáng ấy vốn tự có 3 yếu tố là sáng suốt, định tĩnh, trong lành. Sáng suốt là tuệ, định tĩnh là định, trong lành là giới, nên có thể gọi đó là giới định tuệ tự tánh, vốn vô ngã tức không sinh, không hữu, không tác, không thành. Nên nếu biết buông xả (10 pháp ba-la-mật đều là buông xả), bớt tích lũy, thì khách phiền não (āgantuka) sẽ không lui tới và thân tự giới, tâm tự định, tuệ tự chiếu. Nếu tâm thường buông lung, thất niệm, mất tỉnh giác, ngay đó chỉ cần trở về (tinh tấn) trọn vẹn (chánh niệm) trong sáng (tỉnh giác) với thực tại thân-tâm-cảnh thì liền phục hồi tự tánh giới định tuệ. Hoặc thận trọng, chú tâm, quan sát để tâm bớt phan duyên theo ngoại cảnh. Đó là cách tu phát huy giới định tuệ tự nhiên nhất đúng như tâm nguyện của con mà không cần đi theo con đường tứ thiền bát định, mất thì giờ vô ích.
Còn nếu con muốn quán 32 thể trược là pháp đối trị lòng tham ái nơi cái gọi là “thân này của tôi” hay “thân kia xinh đẹp” thì cũng tốt, nhưng phải quán trên 32 thể trược thật chứ không tưởng tượng thì cũng chính là thiền tuệ.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính chúc Thầy mạnh khỏe và bình an. Con đã hiểu về ngũ uẩn và quá trình nhân duyên sanh diệt của ngũ uẩn, con xin chân thành tri ân Thầy.
Những hôm nay, con bị cơn lũ dục vọng cuốn đi, trong lúc con hành thiền với đề mục niệm Ân Đức Phật. Con biết Chánh niệm và sự tỉnh giác của mình chưa đủ mạnh nên bị tưởng dục vọng kéo đi tạo ra những cảm giác thọ dục lạc, nó đến từng cơn, con dứt được cơn này nhưng và nó lại quay lại mạnh mẽ hơn, dữ dội hơn khủng khiếp hơn. Thỉnh thoảng con quay lại được với đề mục thiền nhưng cũng không ăn thua với nó. Sức mạnh của dục vọng thật khủng khiếp.
Chỉ có hành thiền quán mới quán triệt và đoạn diệt được tham ái, nhưng con chưa biết hành trì như thế nào? Phải chăng con nên chọn đề mục niệm sự chết hay đề mục niệm 32 thể trược ạ? Mong thầy chỉ cho con đoạn diệt được tưởng tham ái, thọ dục lạc này ạ.
Trước đây, con khinh thường những vị thầy tu bị tham ái chi phối hoặc ra ngoài đời lấy vợ, nhưng giờ con mới thấu hiểu tham ái, dục vọng lợi hại như thế nào khi còn luân hồi sanh tử! Con xin sám hối thái độ bất kính với chư Tăng như vậy, mong Thầy chứng minh cho sự thiện tâm sám hối này của con.
Con xin chân thành tri ân Thầy.
Đúng là thiền định mang tính đối trị chỉ có thể đè nén chứ không diệt tận gốc tham dục được. Khuynh hướng hành thiền tuệ với ý đối trị tham dục thì cũng không khác thiền định. Thiền tuệ đúng nghĩa là chỉ quan sát để thấy rõ tham dục trong cơ cấu vận hành của ngũ uẩn. Con chỉ mới hiểu ngũ uẩn qua thông tin hay kiến thức lý trí chứ chưa thật sự thấy quá trình diễn biến của nó khi nó đang xảy ra. Quán bất tịnh cũng tốt nhưng nó chỉ hỗ trợ thôi chứ không thấu triệt được vấn đề. Giống như uống thuốc giảm đau chứ chưa phải là chấm dứt căn bệnh.
Nếu chưa trở về trọn vẹn trong sáng với thực tại thân-thọ-tâm-pháp nơi chính mình được thì con nên thận trọng chú tâm quan sát diễn biến của thân tâm trong hiện tại thì tưởng sẽ không lộng hành, mà vọng tưởng chính là nhân sinh của dục. Nếu con quan sát chính mình, con sẽ thấy dục sinh do tưởng (tưởng tượng, tư tưởng dưới dạng dục tưởng) nên khi con thận trọng chú tâm quan sát tưởng ấy thì nó trở về gốc thuần túy tri giác thôi chứ không còn là mồi lửa cho dục bùng cháy được nữa, dù nó có bị tác động từ bản năng sinh lý. Sự quan sát một cách sáng suốt tự nhiên và khách quan trung thực, nghĩa là không xen cái ta đối kháng, kiểm duyệt hay giải quyết chủ quan vào thì dục tưởng sẽ tự hóa giải và không sinh. Đó mới chính là Thiền Tuệ Minh Sát.