Thưa thầy! Trong quá trình trải nghiệm pháp, con muốn trình thầy những vấn đề đang gặp như sau ạ:
Thứ nhất: Trong lúc đi công tác một mình, hoặc có duyên để ngồi thiền, con thấy “an chỉ định” rất tốt. Vì nếu bổ sung được an chỉ định lúc sống một mình, thì trong cuộc sống hàng ngày “tùy thời định” hoặc “sát-na định” xuất hiện nhiều hơn làm bổ trợ cho thiền tuệ.
Thứ hai: Đôi khi con thấy trạng thái nơi thân có cảm giác nhẹ nhàng, khinh an. Toàn thân thấy “sóng sánh như túi đựng nước”. Liệu đây có phải là con đang bị ảo giác không ạ? Hay là một chướng ngại của thiền thưa thầy?
1) Con vẫn muốn lập trình có điều kiện để thấy, nên cái thấy đó vẫn là cái thấy có điều kiện, trong khi tánh thấy thì vô điều kiện. Nếu thấy có điều kiện “an chỉ định” thì làm sao thấy khi tâm có tham, sân, si, loạn động, trói buộc… như nó đang là?
2) Đó chỉ là một trạng thái, dù trạng thái đó thực hay ảo giác thì vẫn thấy như nó đang là thôi. Nếu phân vân, nghi ngại hoặc thoả mãn, ưa thích thì mới là chướng ngại. Những hiện tượng nhẹ nhàng khinh an cũng vậy, sở dĩ nó trở ngại vì bị nó thu hút dừng lại khiến bỏ mất thực tại đang trôi chảy. Trở ngại này do định an chỉ mà ra.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, đã lâu rồi con không ngồi thiền mà chỉ trở về với tánh biết nơi thực tại, lặng lẽ quan sát. Có những lúc con sa vào dục lạc thế gian nhưng đó cũng là lúc con nhận ra được bài học. Gần đây, vì sợ những lạc thú thế gian làm con đánh mất mình, con dùng thiền định để bổ trợ cho thiền tuệ. Và con ngạc nhiên rằng, khi con ngồi kiết già thì tâm con nhanh vào trạng thái an ổn, và ngồi được lâu hơn trước. Trước kia khi ngồi thiền con đau chân lắm, còn bây giờ chân chỉ bị thâm tím, nhưng không thấy đau nữa. Tuy có hôn trầm, nhưng con nghĩ đó là do công việc mệt mỏi gây nên. Khi dùng thiền định bổ trợ, con thấy trong cuộc sống hàng ngày tâm trở nên quân bình và an định hơn và trở về với thực tại nhiều hơn. Con xin thầy chỉ bảo thêm giúp con ạ. Chúc thầy sức khỏe và bình an!
Đương nhiên định là yếu tố tất hữu trong ba yếu tố giới định tuệ, không thể tách rời nhau trong nguyên lý sống thuận pháp. Khi thấy định lực yếu thì cần bổ khuyết bằng cách thư giãn buông xả để thân tâm bớt bất an giao động là tốt. Tuy nhiên, định có hai loại: Một là định hữu vi hữu ngã do cố gắng tập trung chuyên chú vào một đối tượng để đạt một sở đắc về định, định này đưa đến sắc ái và vô sắc ái. Hai là định vô vi vô ngã do tâm buông xả tự nhiên, không cố gắng tập chú vào đâu mà chỉ để tâm tự an, tự lắng. Khi tâm định chỉ thấy trạng thái định chứ không bám trụ, không sở hữu nó vì nếu có chỗ trụ, có sở đắc thì liền rơi vào trì trệ nên đức Phật dạy định nhiều quá sinh hôn trầm là vậy.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy,
Người hành thiền định nhiều có giúp chuyển hóa những tâm hành trong vô thức chút nào không ạ?
Con xin cám ơn Thầy.
Kính,
Viên Giải
Thiền định hữu vi hữu ngã thường được bậc trí gọi là “đá đè cỏ” vì nó chỉ dồn nén những tâm hành trong vô thức hơn là hoá giải được chúng. Trong khi an trú định, hành giả tạm thời thoát khỏi ràng buộc của ngoại cảnh (5 đối tượng giác quan) nên gọi là ly dục (ngũ dục) nhờ vậy hưởng được hiện tại lạc trú, nhưng dục bên trong thì vẫn còn nguyên hoặc thậm chí còn tăng trưởng dưới hình thức sắc ái và vô sắc ái.
Trong khi chánh định vô vi vô ngã xuất phát từ người có chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng nên tâm người ấy thường trở về với thực tại thân tâm (chánh tinh tấn), trọn vẹn với thực tánh chân đế (chánh niệm) và an trú tánh không (chánh định) một cách tự nhiên tự tại, lúc đó trong ngoài đều tịch tịnh trong sáng nên mới chuyển hoá được tâm hành trong vô thức.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Mô Phật. Con kính chào Thầy. Con có một vài câu hỏi xin Thầy giải đáp giúp con:
1) Ngồi Thiền bằng tư thế Ngồi. Con nghĩ nếu mình ngồi lâu hoặc nhiều thì máu sẽ không lưu thông tốt, chẳng hạn như với triệu chứng tê chân hoặc đau. Như vậy, sẽ gây ra nhiều bệnh, chẳng hạn như bệnh đông máu (blood clots, deep vein thrombosis). Cho nên, thường khi người bệnh nằm nhiều thì thường được trợ giúp của cái dụng cụ gọi là SCD (sequential compression device) để trên 2 chân để giúp lưu thông máu. Hoặc là, nếu người đứng nhiều cũng vậy, nên mang stocks để giúp lưu thông máu, nếu không thì rất dễ bị bịnh blood clots. Nhưng con không hiểu là có nhiều vị ngồi thiền rất lâu, cả vài tiếng, đến vài ngày thì không sao cả?
2) Trước khi còn được phước duyên nghe những bài pháp của Thầy, con có tập Thiền vipassana với một chùa Nguyên Thuỷ. Nhưng con ngồi thiền khoảng 5 phút (con chú ý vào hơi thở), con bắt đầu lắc và lắc rất là mạnh, có khi chúi đầu. Cảm giác của con rất là thích thú. Trong khi thiền, khi bắt đầu nghĩ lắc thì thân con bắt đầu lắc. Nhưng khi xả thiền, thì con muốn lắc, cũng không lắc được. Khi con trình pháp với vị Thầy, con được bảo là tốt, cứ tiếp tục, rồi nó sẽ hết sau 3 tháng. Cái lắc của con không hết sau 3 tháng, nhưng lắc ít hơn và ngắn hơn. Như vậy, con đang tập thiền định, phải không Thầy, chứ không phải thiền minh sát tuệ, như được bảo? Nếu là như vậy, làm sao con hoá giải thiền định này?
Con xin tri ân Thầy.
1) Ngồi lâu quen nên không thấy đau tê nữa, nhưng ngồi nhiều quá vẫn có hại về khí huyết không được lưu thông như con đã nói. Tuy nhiên nhờ an lạc của định mà khí huyết dễ dàng phục hồi, do đó người định lực tốt thì không sao, nhưng nếu không định được thì rất dễ bị bệnh.
2) Một số không ít phương pháp được gọi là thiền tuệ, thực chất chỉ là thiền định. Họ tưởng định luôn luôn sinh tuệ, nhưng không thấy mặt nguy hại của nó là trở ngại cho tuệ. Khi định và tuệ tự tánh (chánh kiến, chánh định) cùng tương tác mới tương sinh được, còn định hữu vi, hữu ngã, thuộc định sắc và vô sắc giới gây trở ngại cho tuệ nhiều hơn sinh (xem 10 trở ngại cho thiền tuệ).
Trạng thái lắc con đang gặp gọi là “ấn chứng thô” trong thiền định, muốn hoá giải con nên quan sát nó thật kỹ khi nó mới khởi lên, hoặc quan sát thân thật rõ khi nó chưa khởi lên, nếu đã trở thành thói quen thì tốt nhất nên bỏ ngồi thiền định, để chuyển qua thiền tuệ tự nhiên như thầy đã hướng dẫn.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính Thầy,
Nghe, hiểu và thực hành theo băng thầy dạy về thiền định, thiền tuệ thì con thấy gần gũi và dễ thực hiện mang lại hiệu quả. Con xin hỏi 2 câu sau:
1. Con không hiểu tại sao lại phân biệt thành thiền/định vô sắc và hữu sắc?
2. Mục đích chia thiền thành các bậc nhất, nhị, tam, tứ,… là để làm gì chứ như cách dạy của thầy thì thực chất là thay đổi cách sống. Mới đầu có thể là tọa thiền sau lan tỏa ra các hoạt động khác tương tự là được.
Trân trọng cám ơn thầy
Con Minh Trí
1) Thiền định hữu sắc dùng tưởng tập trung để biến một đối tượng thô thành quang tướng để từ quang tướng đó phát triển tâm định nên gọi là định hữu sắc. Sau khi đạt được thiền cuối cùng của hữu sắc, hành giả dùng tưởng tập trung vào khái niệm không, như hư không vô biên, thức vô biên v.v… để phát triển tâm định nên gọi là định vô sắc.
2) Với cách hành thiền định như trên hành giả sẽ trải qua các độ sâu hơn của định nên mới chia ra thứ lớp. Đó là phàm định, còn hữu vi, hữu ngã, thuộc tam giới nên ngoại đạo vẫn hành được, nhưng không đưa đến giác ngộ giải thoát. Chánh định đức Phật là định liên kết trong bát chánh đạo nên định tánh không tách rời giới tánh và tuệ tánh ngay trong mọi sinh hoạt đời sống.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch thầy. Suốt thời gian qua con hoan hỷ với cuộc sống tùy duyên thuận pháp vô ngã vị tha, mỗi bước chân con đi như thấm nhuần lời dạy của thầy. Hôm nay con muốn thưa với thầy, nếu cuộc đời tu học của con không găp thầy thì không biết sẽ ra sao, lâu lâu cái định nhân điện mà lúc trước con học vẫn xen vào, làm cắt ngang cái thấy biết mà thầy có dạy con rằng tuệ tự ứng, vì 7 năm con đã tập thiền định làm cho dòng suy nghĩ ngưng bặt. Đúng vậy thưa thầy, loại định này làm mình mất đi trí tuệ, vô cùng nguy hiểm.
Con trình lên thầy chia sẻ tới các bạn nếu ai đang tập loại định mong ngưng bặt hết ý niệm thì xin dừng lại. Thực nghiệm rồi mới thấy thầy dạy đúng.
Tận đáy lòng sâu thẳm con thành kính tri ân thầy.
Sādhu lành thay! Nhiều người vì tâm quá loạn nên họ nghĩ định là cứu cánh, nhiều người vì tham vọng muốn gì cũng được như ý mình nên cố tập trung tu luyện thiền định để đạt được năng lực thần thông… Họ không biết rằng: Tâm thấy được loạn mới là tâm định; dù gặp nghịch ý mà tâm vẫn không động mới là thần thông. Tâm chỉ ứng vừa đủ yên để thấy pháp đang là chính là tâm định; tâm lăng xăng muốn đạt được định lại là tâm loạn! Hạnh phúc thay cho ai thấy ra chân lý thật đơn giản này!
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con xin đa tạ thầy đã chỉ cho con tìm ra chỗ sai và chỗ cần học. Con cũng bận nên hôm nay mới được đọc trả lời của thầy và tiếc là con chưa tìm thấy mười điều cản trở tuệ. Nhận thấy điều này không chỉ có lợi ích cho mình nên con xin làm phiền hỏi thêm là chính vì niệm Phật là thiền định con đang tầm tứ câu A-di-đà nay chuyển sang tầm tứ hơi thở và các duyên khác chứ chưa phải tuệ soi chiếu với tâm rỗng lặng mà tùy duyên thuận pháp. Có điều con thấy tùy duyên thuận pháp nó vẫn cứ còn năng quán sở quán và con thấy vậy rất khó vô ngã ở chỗ này. Mong thầy hoan hỷ chỉ bày. Con hoan hỷ đa tạ thầy
Chỉ khi vướng vào định tướng, hoặc khi dùng ý thức hữu ngã để TÌM KIẾM đối tượng thì mới có năng quán, sở quán (người quán tìm đối tượng để quán), còn khi tâm đã rỗng lặng trong sáng nghĩa là không còn khái niệm năng sở thì tánh giác tự chiếu làm sao còn năng quán sở quán? Ngược lại khi tâm còn khái niệm năng sở thì sao gọi là rỗng lặng trong sáng được? Ví như cây đèn “pin” cố ý tìm vật để soi nên có năng sở, còn mặt trời soi sáng mọi vật tự nhiên nên không có năng sở vậy.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con chào sư,
Hôm qua con hỏi sư câu hỏi là con thấy cái gì đó quan sát 5 uẩn. Và sư nói con có duyên lành vào được định tự tánh.
Mấy hôm nay con tu tập. Con cảm giác con đi sai hay sao sư à. Con thấy người con lâng lâng, con thấy những tia sáng. Rồi nhiều khi con có hiện tượng vỡ tan (như con nhìn xuống thấy bụng con nó vỡ ra). Con thấy người con có lúc tan ra con thấy thích thú. Con nghĩ đó là hỷ lạc. Rồi tự dưng con lại thấy sợ. Tim con đập nhanh rồi hơi thở nó bị tắc nghẽn. Nhiều khi hơi thở gấp. Rồi con thấy nhức nhức ở chính giữa lông chân mày. Như có con sâu muốn chui ra ấy sư ạ. Rồi con nghe tiếng động con hay giật mình. Nỗi da ốc, tim lại đập nhanh.
Do con yếu cái gì hay là không quen à sư, cho dù con rất tỉnh táo? Nhiều khi con hơi bị hôn trầm nhưng có cái gì đó ở trong con rất tỉnh táo. Nó biết con đang bị hôn trầm. Con không biết đó là cái gì.
Mấy hôm trước thì con thấy tâm rỗng quan sát 5 uẩn. Giờ con lại có hiện tượng này. Hay là con ngừng tu rồi con cố gắng giữ giới thật tốt. Học xong con vào thiền Viện Viên Không nhờ hướng dẫn rồi tu tập à sư?
Hơn một tháng nay con thấy tu tập con được nhiều lợi ích như quan sát được mọi cái trong con như sân biết sân, quan sát nó một cái nó đi đâu luôn. Tham cũng vậy. Mọi hiện tượng con quan sát được. Con thấy tự tại hơn. Nhưng khi ngồi thiền con lại cảm giác thấy sợ sợ. Con mới tu tập nên con chưa có kinh nghiệm gì, không hiểu con bị gì hay là những hiện tượng ấy con chưa từng thấy nên con sợ?
Xin sư hoan hỷ tư vấn cho con ạ.
Những hiện tượng con thấy xảy ra rất bình thường tự nhiên khi mới vào định hoặc cận định, đó đúng là hỷ (pīti) nhưng chưa phải lạc (sukha), lạc là khi những trạng thái hỷ đó lắng lại, cảm thấy yên bình không còn trạo cử nữa để vào hai yếu tố cuối cùng là nhất tâm(ekaggatā) và xả (upekkha) mới định hoàn toàn. Còn cái mà con thấy là hôn trầm thực ra không phải là hôn trầm thụy miên (thīna–middha) đâu, vì trạng thái lười chán dật dờ như ngái ngủ mới gọi là hôn trầm. Tuy nhiên nếu định nhiều quá thì đức Phật vẫn gọi là hôn trầm vì nó có tính trì trệ, cản trở sự linh loạt bén nhạy của tuệ.
Sở dĩ thầy nói đó là định tự tánh mà con may mắn bắt gặp vì con không cố ý đạt được nó mà vô tình chứng kiến nó thôi. Chính nhờ như vậy mà khi tâm xuất hiện yếu tố định thì tuệ vẫn soi sáng để con thấy rõ mọi hiện trạng của thân tâm. Tuy nhiên, lúc đầu là định tự tánh nhưng sau đó con muốn lặp lại hay ưa thích trong đó thì cái ngã đã xen vào đòi quyền sở hữu định ấy, và rất nhiều hành giả bắt đầu để mất định tự tánh vô vi vô ngã để lái qua định hữu vi theo ý đồ hưởng thụ sở đắc của bản ngã. Tuy nếu hiểu rõ thì không có gì đáng sợ, nhưng đến đây con nên dừng hướng tu tập định lại vì bản ngã nương theo đó mà phát triển thành đại ngã trong cõi Phạm Thiên sắc giới, vô sắc giới và trở thành hai trói buộc (sanyojana) luyến ái trong định hữu sắc (rūpa-tanhā = sắc ái) và luyến ái trong định vô sắc (arūpa-tanhā = vô sắc ái). Nếu con sợ điều này thì đúng là tánh biết sáng suốt đang nhắc nhở con quay về tu hướng tỉnh thức của tuệ giác.
Để phát huy (bhāvanā) với giới định tuệ chân chính con nên tu tập tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác bằng cách thận trọng, chú tâm, quan sát những sinh hoạt tự nhiên của thân – thọ – tâm – pháp trong đời sống hàng ngày, để tâm thường trở về, trọn vẹn, tỉnh thức với thực tại đang là thì con sẽ phục hồi được sự trong lành, định tĩnh, sáng suốt, của giới định tuệ tự tánh mà mỗi người sẵn có trong tánh biết, chứ không do bản ngã tác thành. Khi tâm thường trong lành định tĩnh sáng suốt thì nó mới trở về với bản tâm rỗng lặng trong sáng (pabhassara citta) mà đức Phật đã dạy trong Anguttara Nikāya. Con lưu ý cái gì do bản ngã tạo tác đức Phật đều gọi là sinh – hữu – tác – thànhtrong luân hồi sinh tử, tu đúng hướng phải là không – vô tướng – vô tác – vô cầu mới có thể không sinh – không hữu – không tác – không thành trong Niết-bàn được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thầy Quý Kính,
Con kính lời thăm Thầy luôn được pháp thể khinh an.
Kính bạch Thầy,
Con có chia sẻ “Lá thư thầy trò 59” cho một chị bạn Đạo, để giúp chị ấy hiểu rõ về chữ Chánh Định trong Bát Chánh Đạo.
Chị ấy chưa thông suốt được ý nghĩa Thầy đã chỉ bày. Chị ấy nhờ con thỉnh Thầy giải thích thêm về định nghĩa của Đức Phật đã ghi trong Trường Bộ Kinh, số 22.
Con xin phép Thầy cho con chép lại đoạn kinh đó dưới đây để Thầy xem cho tiện:
“Này các Tỷ kheo, thế nào là Chánh định? Này các Tỷ kheo, ở đây Tỷ kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm, với tứ. Tỷ kheo ấy diệt tầm, diệt tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Tỷ kheo ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Tỷ kheo ấy xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này các Tỷ kheo, như vậy gọi là Chánh định”.
Chúng con cám ơn Thầy.
Tứ Thiền bát định của ngoại đạo khác với chánh định ở chỗ ngoại đạo muốn đắc thiền như vậy để củng cố bản ngã, để hưởng thiền lạc và thần thông vì vậy vẫn còn vô minh ái dục, hữu vi hữu ngã. Trong khi đó chánh định khởi đầu đã là “ly dục, ly bất thiện pháp” nên tâm buông xả mà định một cách tự nhiên vô vi vô ngã.