Thưa thầy! Hơn một tháng nay con thường phải sống trong trạng thái tâm buồn chán, và có những hình ảnh, ý niệm xuất hiện trong đầu khiến con thường sợ hãi. Con phải làm gì ạ? Nếu con để tâm vào hiện tại, để ý đến những hành động của mình thì giúp con nhẹ nhàng hơn, không biết con làm vậy có được không. Xin thầy giúp đỡ con.
Con cảm ơn Thầy và thành kính xin được đảnh lễ Thầy.
Xem câu trả lời
Con để tâm vào hiện tại như vậy là đúng. Ở nơi con có 4 lãnh vực cần được chú tâm quan sát đó là: 1) Những hoạt động hay trạng thái của thân. 2) Những cảm giác và cảm xúc. 3) Những hoạt động hay trạng thái của tâm. 4) Sự tương giao giữa thân, tâm và cảnh. Khi con thường trở về thấy biết lại chính mình thì sẽ thấy rõ 4 lãnh vực này và khi đó tâm con sẽ rỗng lặng trong sáng, không bị dao động hay bị ảnh hường bởi lực tác động bên ngoài, nên sẽ không còn sợ hãi, buồn chán và bất an nữa. Nhớ là chỉ cần biết mình một cách tự nhiên thôi, đừng quá cố gắng mà gây ra căng thẳng và mệt mỏi.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy, xin Thây giảng dùm mối tương quan và sự khác biệt giữa sự ô nhiễm của tâm và vọng tưởng.
Kinh Đại Niệm Xứ dạy: con đường duy nhất để thanh lọc tâm để đi đến giác ngộ và giải thoát là Tứ Niệm Xứ. Thanh lọc tâm tức là thanh lọc sự ô nhiễm của Tâm, nhưng trong nước có môn phái Thiền dạy hãy để tâm theo dõi vọng tưởng và thấy vọng bỏ vọng. Theo con nghĩ vọng là do ô nhiễm phát sinh, tâm còn ô nhiễm thì còn vọng tưởng chứ bỏ vọng biết bao giờ mới hết để chân tánh hiện ra, ngày qua ngày bỏ vọng mà vọng vẫn còn, cuối cùng Thiền sinh chỉ là người đi cút bắt vọng tưởng. Vậy con kính Thầy giảng giải dùm.
Ô nhiễm là những phiền não ngủ ngầm trong tâm và từ đó mà phát sinh ra những vọng tưởng. Nói cách khác ô nhiễm là những khuynh hướng tiềm ẩn trong vô thức chúng trở thành những xung động tạo nên những tư tưởng sai xấu gọi là vọng tưởng.
Khi vọng tưởng xuất hiện chính là ô nhiễm hiện hành, do đó thấy được sự sinh diệt của vọng tưởng chính là phát hiện ra những ô nhiễm ngủ ngầm. Không phải bỏ vọng mà là thấy ra được tánh tướng thật của vọng niệm. Đó là cách diệt ô nhiễm bằng trí tuệ vipassana trong Tứ Niệm Xứ.
Trong thiền vipassana tinh tấn là không buông theo vọng tưởng chứ không diệt vọng tưởng mà chỉ chánh niệm tỉnh giác để thấy vọng tưởng sinh diệt như thế nào. Không xem vọng tưởng là ta, của ta hay tự ngã của ta. Nó chỉ là pháp vô thường, khổ, vô ngã.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy cho con hỏi ạ!
1) Thưa thầy con thấy được khi có một cảm thọ dễ chịu thì có một ý niệm thỏa mãn với nó và mong giữ nó lại, còn khi có một cảm thọ khó chịu thi mình muốn đẩy nó ra hay tránh nó đi. Thầy dạy buông cái ngã đi có phải là buông cái ý niệm mong muốn giữ lại hay tránh né đó không ạ? Và thiền là biết như thật từng cảm thọ, ý niệm, hành động của mình, nó như thế nào thì biết như vậy (nếu thấy có ý niệm mong muốn thủ xả, thì biết có ý niệm đó, thế thôi, phải không ạ?
2) Thưa thầy khi ngồi không làm gì thì thân tâm thế nào biết như vậy, còn khi làm việc gì thì phải để tâm vào việc đó, biết rõ việc mình làm, không để ý đến niệm khởi, phải không ạ? Vì khi con để ý đến niệm khởi thì dễ bị tán tâm. Ví dụ như khi con rửa bát mà cứ để ý đến niệm khởi (niệm tâm) thì làm sao rửa bát cho trọn vẹn được?
3) Thưa thầy khi tu một thời gian tâm mình thanh thản, nhẹ nhàng hơn nhưng khi đó có những nỗi sợ hãi, buồn phiền xuất hiện, những ý niệm mình sợ nó đến (có thể là những nỗi sợ ngày xưa của con) lúc đó con chỉ quan sát biết nó hay phải tìm nguyên nhân của nó ạ? (những ý niệm cảm thọ bình thường thì mình dễ dàng quan sát nó nhưng nếu đó là nỗi sợ hãi sâu kín của mình thì thật không dễ ạ)
Thưa thầy có phải mình cứ tinh tấn chánh niệm tỉnh giác. Đến lúc giác niệm mạnh rồi thì có sự xáo trộn nào trong tâm, hay có lo lắng gì mình chỉ cần nhìn nó là biết ngay nguyên nhân của nó phải không ạ? Xin thầy cho con lời khuyên, con xin cảm ơn Thầy ạ!
1) Con đã thấy được 2 loại ái như vậy là đúng, và buông chính là buông thái độ thủ xả của cái ta như con nói là đúng, vì không phải buông trạng thái dễ chịu hay khó chịu mà là buông ý niệm lấy bỏ. Và con hiểu thiền là thấy ra mọi diễn biến đó cũng đúng.
2) Tùy theo lúc đó hoạt động nào nổi bật, ví dụ khi con rửa bát thì hành động rửa bát là nổi bật vậy con để ý việc rửa bát là đúng, lúc đó con vẫn biết một cảm giác hay một ý tưởng khởi lên, nhưng nếu không nổi bật lắm thì con chỉ biết nó sinh diệt rồi trở lại niệm thân nơi hành động đang làm. Nói chung khi đối tượng thân là nổi bật thì không nên theo đuổi trạng thái tâm mà chỉ biết thôi rồi lo niệm thân thì tốt hơn. Nếu con lái xe mà lo để ý đến trạng thái tâm thì không ổn đâu.
3) Khi sợ hãi tức là đối tượng trạng thái tâm nổi bật, lúc đó con nên niệm tâm, nghĩa là chỉ quan sát tâm thôi chứ không truy tìm nguyên nhân, nguyên nhân sẽ tự xuất hiện khi con quan một cách sát khách quan trung thực. Vì vậy đúng là khi chánh niệm tỉnh giác đúng mức thì sẽ thấy hiện trạng và cả nguyên nhân.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con áp dụng pháp quán Tứ niệm xứ, con đạt được chánh niệm tỉnh giác khá tốt. Song gần đây con lại nảy sinh một thắc mắc: “Khi quán Tâm thì cái gì quán Tâm? Tâm quán Tâm ư? Nếu lấy Tâm quán Tâm, thì Tâm nào quán Tâm nào?” Kính mong Thầy giải nghi cho con chỗ này. Con xin biết ơn Thầy. Kính Thầy.
Xem câu trả lời
Có lẽ con mới vào trang web nên chưa đọc và nghe thầy giảng nhiều. Điều con hỏi thầy đã giảng quá nhiều rồi. Nếu tâm con có sân mà con biết nội tâm đang có sân thì đó là tâm niệm tâm chứ còn gì nữa. Sự thật là vậy thì con cứ biết vậy sao con lại đem lý trí ra mà giải đoán để tạo thêm nghi hoặc (lý trí sinh nghi). Mà sự thật quá hiển nhiên sao con lại nghi ngờ làm gì? Tập nhìn sự thật như nó là, đó mới là chánh niệm tỉnh giác. Nghi là hết chánh niệm tỉnh giác rồi.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Dạ, con mới học thiền TỨ NIỆM XỨ, cho con hỏi khi mình thiền thì mình chú vào phần Tâm là chính hay phần Thân ạ? Con cám ơn thầy.
Cái đó còn tùy theo trường phái. Trường phái chuyên niệm thân thì lấy thân làm đối tượng chính, cũng vậy, trường phái niệm thọ lấy thọ làm chính, trường phái niệm tâm lấy tâm làm chính. Các trường phái này muốn đơn giản hóa cho hành giả dễ hành, nhưng như vậy thì sẽ chỉ còn NHẤT NIỆM XỨ mất. Theo thầy thì đã là TỨ NIỆM XỨ thì xứ nào cũng chính cả. Thực ra bốn niêm xứ có tương quan mật thiết với nhau. Nếu con chia cắt ra để thấy riêng cũng được nhưng chánh niệm tỉnh giác sẽ rơi vào kinh nghiệm cục bộ. Nhưng nếu chánh niệm tỉnh giác mở ra một chiều kích rộng lớn toàn diện hơn, nghĩa là lấy toàn bộ thực tại thân-tâm-cảnh làm đối tượng, thì lúc đó đối tượng nào nổi bật nhất sẽ là đối tượng chính. Ví dụ khi con dang đi thì đi là đối tượng chính, chỉ cần chánh niệm tỉnh giác với động tác thân đang đi là được. Trong khi đi con đạp phải một viên sỏi nhọn nên có cảm giác đau, lúc đó con chánh niệm tỉnh giác đối với cảm thọ đau là chính. Khi đau tâm con khởi lên bực tức, con chánh niệm tỉnh giác với trạng thái tâm bực tức ấy là chính, do đó không có đối tượng nào là phụ cả.
Khi phân ra đối tượng chính và phụ thì sẽ rất dễ rơi vào thiền định, hoặc rơi vào điều tối kỵ của thiền tuệ là ấn định đối tượng chứ không để đối tượng đến tự nhiên. Hơn nữa trong thiền tuệ đối tượng là phụ, nội dung thái độ tâm thiền mới là chính. Thái độ tâm thiền không đúng thì dù chọn đối tượng nào cũng chẳng đi tới đâu. Nhưng khi tâm thiền đúng thì vạn pháp đều trở thành thực tánh chứ đâu phải chỉ là thấy thực tánh của thân hay tâm mà thôi đâu.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy, con đang gặp lúng túng trong tu tập, xin Thầy chỉ dạy. Trước đây, cũng đã lâu, trong một lần tình cờ con thấy được mọi pháp vận hành như nó đang là (con đã trình với Thầy). Từ đó con sống bình thường, lặng lẽ quan sát thấy biết một cách tự nhiên, và con không một lần nào có lại được sự thấy biết rỗng lặng trong sáng như vậy được nữa. Sự tu tập của con thời gian qua như sau: 1. Con cố gắng để không rơi vào sự so sánh và mong cầu trạng thái đó. Mỗi khi có sự cố gắng, con nhận thấy ngay việc tu tập có năng sở, đối tượng không còn tự nhiên. 2. Khi con buông xuống những cố ý tạo tác của cái ta cá nhân thì dễ bị rơi vào tâm si. 3. Điều rõ nhất con thấy được là sự thấy biết của mình luôn bị ngăn trở bởi một cái gì đó (phải chăng đó là nghiệp lực) và lý trí luôn luôn xen vào bất kỳ lúc nào.
Thưa Thầy, có phải chăng khi “rỗng lặng trong sáng” được cũng là một sự kiện “xảy ra” khi hội tụ đủ nhân duyên, không thể cầu. Vì thế tuy con hiểu không cố tâm tham cầu, nhưng dù sao cũng đã đôi chút cảm nhận mùi vị của Pháp nên con thấy lúng túng với viêc tu tập của con hiện nay. Kính mong Thầy chỉ dạy. Con kính chúc Thầy luôn mạnh khỏe.
Khi con trải nghiệm thực tánh thì đừng hình thành kinh nghiệm về nó. Kinh nghiệm là nắm bắt thực tánh bằng kết luận, bằng ý tưởng. Đó là tiến trình khái niệm hóa của lý trí vọng thức. Bản thân thực tánh vượt ngoài khái niệm, do đó khi đã bị khái niệm hóa thì nó không còn là thực tánh mà chỉ là hình ảnh quá nhỏ nhoi về nó. Giống như con chụp tấm hình một dòng sông, trong tấm hình dòng sông đã dừng lại còn dòng sông kia thì vẫn tiếp tục trôi chảy không ngừng.
Vấn đề không phải ở chỗ con có thấy lại thực tánh hay không, bởi thực tánh luôn mới mẻ không ngừng, khi con muốn nắm bắt nó thì “ý muốn biết, muốn được” đã che mờ thấy biết của con, và thực tánh đã qua mất rồi. Khi thấy biết có ý đồ thì thực tánh không bao giờ xuất hiện, dù muôn đời nó vẫn là như vậy chẳng mất mát đi đâu cả. Vậy vấn đề không phải là thấy lại được thực tánh con đã thấy, mà là tâm thấy biết có rỗng lặng, vô tâm và trong sáng không. Khi con không thấy thực tánh tức con đang thấy qua khái niệm của bản ngã. Đó không phải là cơ hội để con thấy ra bản chất của cái ta ảo tưởng hay sao? Thấy hành trình tham sân si hay vô minh ái dục của bản ngã cũng là thấy thực tánh. Con phải khám phá cả hai: thực tánh của pháp tự nhiên và thực tánh của cái ta ảo tưởng. Khi bản chất của cái ta ảo tưởng đã bị phơi bày thì đồng thời thực tánh của pháp chân đế cũng xuất hiện.
Lần con thấy trước đây chỉ là nhờ cái ta bỗng nhiên vắng mặt, nên chỉ thấy thực tánh pháp tự nhiên mà không thấy hành trình của cái ta ảo tưởng vẫn còn đó trong vô thức chưa khởi lên. Nay khi nó đang hiện khởi và xen vào sự thấy biết của con thì con không khám phá nó mà lại muốn thấy thực tánh thôi, sai lầm của con chính là ở chỗ đó. Trong kinh Tứ Niệm Xứ đức Phật dạy thấy thân, thọ, tâm, pháp như nó đang là, bao gồm cả tham, sân, si, khổ, lạc, xả… chính là thấy thực tánh, chứ không phải mong đừng có thực trạng đó để thấy thực tánh của pháp nào khác. Cái gì con thấy nó như nó đang là, chứ không phải con nghĩ là, chính là thấy thực tánh.
Vậy: 1) Con cố gắng buông tức là buông mà không xả, nên trong buông còn ý chí buông của cái ta. Hãy để tự nhiên thì tánh biết tự thấy pháp mà không cần cố gắng gì cả. Vì thấy với tâm rỗng lặng trong sáng tức là buông chứ không có ai buông và cái gì để buông cả. 2) Nếu con biết bị rơi vào tâm si thì đâu còn si nữa. Phật dạy, “nội tâm có si biết là nội tâm có si” tức là đang chánh niệm tỉnh giác, nghĩa là tánh biết vẫn sáng suốt, định tĩnh, trong lành. Khi con không biết bằng lý trí của thức tri, tưởng tri thì con lầm tưởng đó là tâm si. Nhưng không biết không hẳn là tâm si, chính cái biết bị chi phối bởi trạo cử và nghi hoặc mới gọi là tâm si. Còn biết (tuệ tri) mà không biết (tức không bị tưởng tri và thức tri che lấp) mới thực sự là biết thực tánh.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kinh bạch Thầy, Con đã download “Thưc tại hiện tiền” xuống và nghe đi nghe lại vẫn không thấy chán, thật là tuyệt vời Thầy ạ! Thầy đã tóm tắc giáo lý của Đức Phật vào đó, con không thể dùng ngôn từ để diễn tả tâm con được thưa Thầy. Tuyệt quá, con nghĩ mình không cần học gì nữa, quá đủ cho con rồi. Con không biết làm sao đáp đền ân Thầy. Con sẽ sống với pháp mà Thầy đã khai thị. Tuy nhiên, con còn thiếu về bài pháp “Tứ niệm xứ”. Bởi Thầy nói Thực tại hiện tiền chỉ mới là lý thôi, “Tứ niệm xứ” là sự. Thầy đã bảo phải đủ lý lẫn sự mới viên dung. Con xin cám ơn thầy.
Kính thư.
Xem câu trả lời
Thiền Vipassanā hoàn toàn dựa trên kinh Tứ Niệm Xứ, mà khóa thiền 7 ngày thầy đang hướng dẫn chính là thiền Vipassanā, tiếc là con không dự trọn vẹn cả khóa. Trong mỗi khóa con phải theo dõi đủ 7 ngày mới thông suốt được lý và sự của pháp thiền này. Con có thể mở Pháp Thoại để download bài giảng các khóa thiền trước cũng được. Con có thể tham khảo Kinh Tứ Niệm Xứ trong Trường Bộ Kinh và Trung Bộ Kinh do Hoà Thượng MInh Châu dịch để hiểu rõ thêm.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Sư. Con xin hỏi:
1. Trong bài kinh Tứ Niệm Xứ Đức Phật nói đến cả thiền định không hay chỉ thiền tuệ (vipassana) thôi ạ? Trong bài giảng Đại Niệm Xứ phần niệm thân có nói đến phép quán xét bất tịnh hay quán xác chết bị phân hủy dần (phần này cũng được ghi lại khá dài trong kinh), cái này là thiền định hay thiền tuệ ạ? Và khi hành giả thực hành loại thiền này thì cần nhìn trực tiếp hay dùng tranh ảnh tử thi cũng được ạ?
2. Con đọc lại một câu trả lời cũ của Sư trong mục hỏi đáp này Sư có nói đến phép quán niệm hơi thở (16 phép quán niệm hơi thở) là để hóa giải thiền định chứ không phải để tu thiền định an chỉ như nhiều người lầm tưởng. Xin Sư giải thích rõ hơn điều này được không ạ? Phiền não của định an chỉ là gì và tại sao phép quán niệm hơi thở lại có thể hóa giải được nó?
Chúc Sư mạnh khỏe và an lạc ạ.
1) Kinh Tứ Niệm Xứ chủ yếu là để hành thiền tuệ. Nhưng trong đó có nhiều đối tượng vừa có thể là đề mục thiền tuệ, vừa là đề mục thiền định, chỉ khác nhau về cách hành mà thôi. Vì vậy mà nhiều người không phân biệt được hai cách hành đã sử dụng những đối tượng này như đề mục thiền định mà tưởng là thiền tuệ. Đó là khi hành giả tách rời hai pháp tu định và tuệ ra riêng theo chế định, nhưng trong pháp hành thiền tuệ thì định và tuệ 2 yếu tính không thể tách rời nhau. Giống như mặt hồ yên thì soi rõ cảnh, mặt hồ động thì cảnh vật tan mất. Trong thiền gọi hai công năng này là tịch và chiếu.
2) Khi một người đắc định an chỉ về hơi thở, mỗi lần người ấy hành vipassanà thì một số trạng thái của định lại xen vào làm phát sinh 10 chướng ngại gọi là phiền não của thiền tuệ (xem Thư Thầy Trò (9) trong Thư Viện – Văn). Để thoát khỏi 10 chướng ngại đó, hành giả phải vào lại hành trình niệm hơi thở trong thiền đinh, nhưng đến giai đoạn nào thì phải dùng thiền tuệ quan sát rõ trạng thái đó để thoát ra, không để đắm vào trạng thái đó (sắc ái, vô sác ái), nên gọi là phép hóa giải thiền định.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy! 1. Kinh điển thường hay nói 4 niệm xứ nhưng có phải niệm thân, niệm thọ, niệm tâm đều chỉ là một phần của NIỆM PHÁP không ạ (vì thân, thọ hay tâm đều là các pháp)?
2. Trong kinh quán niệm hơi thở có câu: “quán vô thường – tôi sẽ thở ra”, đối tượng của sự quán vô thường trong lúc này là gì ạ? Xin thầy giải đáp. Chúc thầy luôn an lạc.
1) Con nói đúng. Trong phần niệm Pháp đều có thân, thọ và tâm, ví dụ như niệm pháp về 5 uẩn. Chỉ khác ở chỗ là khi niệm thân, thọ, tâm thì ba đối tượng thân, thọ, tâm được tách riêng để niệm đối tượng nào thì chỉ niệm đối tượng đó thôi. Còn niệm pháp thì thấy cả ba trong quá trình diễn biến tương giao của chúng. Tuy nhiên ở đây không nói pháp một cách chung chung mà chỉ nhấn mạnh đến: 5 triền cái, năm uẩn, 12 xứ, Thất Giác Chi, Tứ Diệu Đế mà thôi.
2) Quán vô thường ở đây có nghĩa là trong khi thở thấy ra tánh vô thường ngay nơi mọi diễn biến vô thường của động tác thở hoặc trạng thái thở. Nhớ rằng tứ “quán” này không có nghĩa là suy gẫm về ý nghĩa của sự vô thường, mà là thấy biết trực tiếp tính chất vô thường ngay nơi sự thực tại hiện tiền..