Con xin chào Sư Ông ạ!
Kính mong Sư Ông giải giảng cho con hiểu về một niềm tin trong sạch nơi Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng.
1. Như thế nào được gọi là niềm tin trong sạch ạ?
2. Làm như thế nào có được niềm tin trong sạch đó ạ?
3. Niềm tin và Đức tin có khác nhau không ạ? Nếu có khác nhau thì khác nhau ở những điểm nào ạ?
4. Ý nghĩa của sức mạnh niềm tin ạ?
1) Niềm tin trong sạch là tin nơi Tam Bảo chứ không tin vào cái ta tham sân si. Tin Phật là tin đức tính sáng suốt của Phật, tin Pháp là tin đức tính vắng lặng (tịch tịnh) của Pháp, và tin Tăng là tin đức tính trong lành (thanh tịnh) của Tăng.
2) Thường sống với hành động, nói năng, suy nghĩ sáng suốt, định tĩnh, trong lành thì niềm tin sẽ trong sạch.
3) Phật giáo thường dùng từ niềm tin để chỉ sự tin tưởng nơi Tam Bảo đồng thời tự tin sự sáng suốt định tĩnh, trong lành nơi chính mình, chứ không dựa vào tha lực. Còn một số tôn giáo khác sử dụng từ đức tin để chỉ sự giao phó mình cho Thượng Đế, Đấng Phạm Thiên hay các vị Thần Linh của họ, có tính dựa vào tha lực nhiều hơn. Tuy nhiên ngôn từ không quan trọng, chủ yếu là có dùng với ý nghĩa đúng tốt hay không mà thôi.
4) Tất nhiên tự tin hay tin vào tha lực đều có sức mạnh. Tin vào tự lực không có nghĩa là tin vào bản ngã mà tin vào nguyên lý vận hành của Pháp trong mỗi người. Và tin vào tha lực cũng chỉ để niềm tin nơi chính mình vững vàng hơn. Thực ra, chỉ có năng lực của Pháp Tánh Tự Nhiên (thực tánh pháp) chứ không có tha lực hay tự lực gì cả.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy,
Trước hết con muốn bày tỏ sự vui mừng khi tìm ra web site này và nguyện sẽ tìm cách đóng góp để phát triển trang web này. Sau dây xin thầy giúp con sáng tỏ một vài điều:
1. Đa số tôn giáo đều nói tới Thượng Đế và sự mặc khài, nhưng trong Phật giáo thì không thấy đề cập tới. Có phài đây là sự khác biệt giữa Phật giáo với tôn giáo khác? Xin thầy giải thích.
2. Có phải Ky Tô giáo là một hình thức Tịnh độ tông của Phật giáo vì dùng nghi thức tụng niệm (đọc kinh) và thờ phượng?
1) Khi chưa thấy Pháp thì cần có đức tin nơi Pháp (Chân lý rốt ráo), vì nếu không thấy mà cũng không tin thì chắc chắn rơi vào lầm lạc. Hầu hết các tôn giáo đặt nặng đức tin vì rất ít người có khả năng thấy Pháp. Phật giáo có đủ tín, tấn, niệm, định, tuệ, nhưng lấy tuệ làm chính, nên nói “Duy Tuệ thị nghiệp” cũng đúng. Do Thiên Chúa giáo lấy đức tin làm chính nên mới có mặc khải (từ tha lực). Trong khi Phật giáo lấy trí tuệ làm chính nên mới có khai ngộ (tự lực). Thực ra, nếu thay các từ Thượng Đế và Pháp thành Chân Lý Rốt Ráo (Paramattha Sacca) thì mặc khải hay khai ngộ cũng giống nhau. Nhưng do hai hệ thống ngôn ngữ truyền đạt khác nhau nên khai thị và mặc khải có vẻ như ngàn trùng xa cách, trên thực tế đã thấy ra Chân Lý Rốt Ráo thì Chân Lý là một chẳng còn khái niệm gì để so sánh giống hay khác cả.
2) Đúng là nhiều người có cảm tưởng Thiên Chúa giáo và Tịnh Độ Tông có nhiều điểm giống nhau như anh em sinh đôi:
– Phát xuất cùng thời: sau đức Phật khoảng trên 600 năm.
– Cùng tôn thờ một Đấng Tối Cao của mình. Tuy Đấng Tối Cao của họ có danh xưng khác nhưng lại có ý nghĩa tương tự nhau:
– Phật A-di-đà ở cõi Tây Phương<=> Đức Chúa Cha ở trên Trời (Thiên Đàng)
– Niệm Phật Vô Lượng Quang<=> Nguyện danh Cha Cả Sáng
– Nguyện sinh Tây PhươngTịnh Độ trung <=>Nguyện Nước Cha trị đến vâng ý Cha
– Niệm Phật A-di-đà với đức tin bất thối và nhất niệm gọi là Vô biệt niệm<=> Nguyện danh đức Chúa Trời với đức tin bất thối gọi là Vâng ý Cha.
– Niệm đến Vô biệt niệm thì “Bất lao đàn chỉ đáo Tây Phương”<=> Nguyện đến vâng ý Cha thì “Dưới đất bằng trên Trời vậy”.
Có lần đức Phật dạy “Không phải là ước nguyện gì mà là có làm đúng hay không”. Vậy điều quan trọng không phải là hai chủ trương tu tập của Tịnh Độ và Thiên Chúa có giống nhau không, mà là ai sống đúng với Chân Lý Rốt Ráo thì sẽ có Chân Lý Rốt Ráo và đã là Chân Lý Rốt Ráo thì sao lại sai khác được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, Con có băn khoăn về câu hỏi của một bạn trong mục này về việc nhẹ vía và buổi đêm đi ngủ thường có cảm giác như đang nói chuyện với ai và ngủ xong thấy mệt mỏi.
Thưa sư, theo như con biết thì hình như ở một vài trường phái tâm linh khác cũng có khi chủ động làm việc này như “xuất vía đi học hỏi trao đổi từ nơi này nơi kia hoặc làm một số việc này khác”. Như vậy thì ở một góc độ khác việc này cũng không phải là vấn đề gì lắm, nếu mình thực sự có thể hiểu và chủ động trong việc này.
Lại nữa, thầy có nói nên niệm ARAHAM SAMMÀ SAMBUDDHO là hai trong 9 ân đức của đức Phật, là đức tính hoàn toàn thanh tịnh trong sáng của chư Phật. Con cũng không hiểu về niệm Phật lắm nhưng con nghĩ chắc niệm Phật hay niệm một điều gì khác cũng mang lại định tâm thôi.
Và có đoạn này con cũng hơi thắc mắc: “Nếu có dịp đến chùa thầy tặng con một tượng Phật để đeo sẽ không còn hiện tượng đó nữa”, con cũng băn khoăn không biết tượng Phật có tác dụng nhiều không ạ vì con thấy bên Phật giáo Nguyên thủy ít nói tới vấn đề tha lực.
Những điều trên theo con hiểu là vậy, không biết con có bị thiếu đức tin vào những điều thiêng liêng không?
Con mong thầy chỉ bảo những sai thiếu cho con. Con xin cảm ơn thầy.
1) Trạng thái “nhẹ vía” trong giấc ngủ đó có thể do bị xáo trộn tâm lý đưa đến thần kinh căng thẳng hay suy nhược, cũng có thể do “điển” bên ngoài quấy nhiễu. Trường hợp thật sự thông hiểu và chủ động được thì không sao, nhưng nếu thích xuất vía để thỏa mãn cái ta thì cũng có ngày gặp “ma”, nếu không thì dần dần cũng rơi vào tình trạng … suy nhược!
2) Nếu tâm trí luôn sáng suốt, định tĩnh, trong lành thì tất nhiên là không cần niệm Phật hay niệm bất cứ điều gì khác. Đeo tượng Phật cũng vậy. Đó chỉ là tùy bệnh mà cho thuốc, không bệnh thì cũng không cần dùng thuốc. Tha lực hay tự lực đều có chỗ sai chỗ đúng, tùy thuộc vào mức độ nhận thức của mỗi người. Nếu xem tự lực là bản ngã thì chẳng thà tin tha lực mà vô ngã còn hơn. Ngược lại, hoàn toàn nô lệ vào tha lực thì biết khi nào mới tự tri tự giác. Một người sống vô ngã thuận pháp thì tha lực và tự lực không hai, vì tha lực hay tự lực cũng đều là pháp cả.
Nếu hiểu tha lực là lực bên ngoài thì mỗi pháp tồn tại đều có tự và tha. Mỗi ngày chúng ta sống đều nhờ vào vô số nguồn lực bên ngoài làm sao mà hoàn toàn tự lực được. Sống là sự tương giao vận hành giữa trong và ngoài, do đó phải biết rõ sự tương giao đó hơn là phân biệt trong với ngoài, tự với tha. Nếu hiểu tha lực là lực siêu nhiên, như Ân Đức của Tam Bảo, oai lực của Chư Thiên v.v. thì vẫn có. Do đó, với những người chưa đủ chánh niệm tỉnh giác, thường thiên về đức tin, thì một số pháp môn như niệm Phật hay đeo tượng Phật là pháp hỗ trợ để tâm họ dễ an ổn hơn. Đó là mượn tha lực để phục hồi tự lực. Trong rất nhiều trường hợp đức Phật không dùng tới tự lực mà tha lực làm giúp Ngài. Ví dụ như khi đức Phật bị xúc phạm thì vi Hộ Pháp hiện ra làm cho người kia sợ hãi không dám xúc phạm Ngài nữa.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Sư.
Con có hai câu hỏi:
1- Đạo Phật có nói về Tha Lực va Tự Lực.
Tự lực bằng Giới Định Tuệ.
Tha lực là nhờ vào sự hộ trì của chư Phật.
Phái Mật Tông thường tổ chức rất nhiều Lễ Tịnh Hoả, Lễ cầu nguyện…
Theo Sư, tu tập bằng Tự lực có đủ không?
Cầu nguyện quá nhiều như vậy có phải là mê tín không?
2- Sư nói khi lạy Phật Thích Ca là kính nhớ công đức, bi trí tuyệt vời của Phật chứ không phải cầu nguyện Phật, vì Phật không thể làm nên ước mơ của Phật tử.
Riêng Phật Di Đà, Phật Dược Sư, Quán Thế Âm… Cầu nguyện các Phật nầy thì sao?
Tóm lại chúng con có nên cầu nguyện không, hay chỉ “lặng lẽ” tu để giải thoát thôi?
Con nghe theo lời khuyên của một Thầy, nên trước bàn Phật con hay nguyện câu nầy: “Con nguyện đời đời kiếp kiếp quy y tam bảo. Xin ơn trên gia hộ cho đệ tử đời đời kiếp kiếp gặp được chánh pháp và chân minh sư”. Thầy nghĩ sao về điều nầy?
Kính thư.
Chúc Hân
Xem câu trả lời
1) Khi còn bản ngã thì còn tự lực và tha lực. Một em bé tất nhiên cần tha lực của mẹ cha v.v… Nhưng khi lớn lên em phải phát huy tự lực vì tự lực là nhân, tha lực chỉ là duyên. Khi không còn bản ngã nữa thì hoặc tự lực và tha lực là một hoặc không cần tự lực tha lực gì cả. 2) Cầu và nguyện là hai việc khác nhau. Cầu là xin hay mong được một điều gì đó cho mình hoặc người khác, vì vậy thường dựa vào tha lực. Nguyện là quyết tâm làm một việc gì đó cho mình hoặc người khác, vì vậy cần tự lực nhiều hơn. Ví dụ nguyện giữ giới, nguyện hồi hướng, nguyện sống vô ngã vị tha v.v. 3) Người tu tập cần dựa vào tự lực thì mới nhận được tối đa sự trợ giúp của tha lực. Ví dụ một em học sinh phải siêng năng học tập thì mới học được nhiều bài học từ thầy cô. Nếu em không chịu học tập thì thầy cô giảng chỉ làm em nhức đầu thêm mà thôi. Tự mình phải biết tiếp thu những nguồn trợ lực để phát huy tự lực cho đến khi có thể tự lập thì không nên dựa vào tha lực nữa. Ví dụ như một người bị thương phải nhờ vào xe lăn mà đi, nhưng khi đã khỏi thì phải tự tập đi chứ không nên ngồi xe lăn mãi. Cha mẹ nuôi dạy con chỉ muốn con khôn lớn để có thể tự lập chứ không ai mong con cái ỷ lại vào mình. Chư Phật cũng vậy, chỉ khai thị cho chúng sanh biết tự giác ngộ giải thoát. Nếu ai không tự nỗ lực thì dù cho cầu Phật gia hộ cũng không thoát khỏi phiền não khổ đau trong luân hồi sinh tử. Đức Phật dạy: “Mỗi người là nơi nương nhờ của chính mình, không ai khác là nơi nương nhờ cho mình được. Khi đã trở nên thuần tịnh thì chính mình là nơi nương nhờ tối thượng”. Vì vậy “Mỗi người hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”.