Bạch Sư, trong khi ngồi tĩnh lặng hay làm việc gì dù đang theo dõi quan sát nhưng thỉnh thoảng con niệm thầm: “tinh tấn – chánh niệm – tỉnh giác”, hay đọc thầm bài thi kệ phù hợp với hoạt động lúc đó trong Tỳ Ni nhật dụng để tránh bị hôn trầm. Xin Sư dạy con làm như vậy được không? Con cảm ơn Sư.
Tất cả mọi phương tiện đều tốt cả. Nhưng cứ xem như đó là pháp phương tiện hỗ trợ thôi. Trong tu tập phải biết pháp gì là chính pháp, pháp gì là tùy pháp để đừng nhầm lẫn phụ thành chính là được. Khi vô sự, tâm sáng suốt, định tĩnh, trong lành là chính, nếu không được mới phải sử dụng một phương tiện để lấy lại sáng suốt, định tĩnh, trong lành. Khi hữu sự thì thận trọng, chú tâm, quan sát là chính, nếu bị thất niệm, bất giác thì mới dùng một phương tiện nào đó thích hợp để thận trọng, chú tâm, quan sát trở lại. Cái chính là cái không thể thiếu, còn cái phụ khi nào cần mới phải sử dụng, đừng để cái phụ lấn lướt cái chính, nên khi không cần nữa phải bỏ đi ngay. Tất cả pháp môn phương tiện khi không cần nữa phải bỏ ngay nếu không mãi mãi ở trong tượng pháp, không thể vào được. Ví dụ như khi chân đau không tự đi được mới phải dùng cái nạng, nhưng nạng chỉ là phương tiện tạm thời, đừng để nó thay thể chân, nên bất cứ khi nào chân có thể tự đi được rồi thì phải bỏ nạng đi, nếu không sẽ bị lệ thuộc vào cái nạng, không thể tự mình đi được. Trừ phi cái chân vô dụng mới phải dùng nạng suốt đời. Phật dạy: chính phápPháp như thuyền đưa người qua sông, pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con cảm ơn thầy, con nhận được câu trả lời lần trước của thầy, con rất vui và đã giúp ích cho con rất nhiều. Con mong thầy làm rõ giúp con trong trạng thái tâm này: Giáp mặt với hiện tại chỉ còn HƠI THỞ và tình huống ĐANG LÀ (không còn ý niệm về bản thân như được tôn trọng, được khen chê, được thấy mình làm tốt nhiều việc, không tự ti hay là gì đi nữa), mà chỉ còn niềm vui sống với hơi thở và những sự vụ mà pháp đang vận hành theo duyên nghiệp đến với mình nơi hiện tại đang là. Ở đó bỗng quên mình đi không còn lo lắng hay sợ hãi nữa (vì trạng thái tâm không còn cảm nhận về cái tôi nữa), bây giờ, chỉ còn niềm vui sống trọn vẹn cùng hơi thở CHÁNH NIỆM và sự vụ đang là trong trạng thái tâm “phục vụ để hoàn toàn – hoàn toàn để phục vụ”. Ở đó không còn khái niệm, không còn chờ thời gian cứu cánh, đón nhận mọi pháp đến với mình bình thản, không lo âu, không hy vọng, không thất vọng… Tất cả chỉ là bài học để mình sống đúng, sống tốt hơn. Con mong thầy làm rõ giúp con, trạng thái tâm đó và tinh thần: “phục vụ để hoàn toàn – hoàn toàn để phục vụ” con còn phải điều chỉnh thêm gì? Con thưa thầy.
Sống luôn chánh niệm tỉnh giác ngay nơi hiện tại, như vậy gọi là sống tùy duyên thuận pháp, không có gì sai. Tuy nhiên đã sống tùy duyên thuận pháp thì chỉ cần tâm rỗng lặng trong sáng là có thể trọn vẹn với tất cả mọi hoạt động, mọi trạng thái, mọi tình huống chứ không cần phải chỉ trọn vẹn với hơi thở. Có khi chỉ cần có chánh niệm tỉnh giác thôi còn đối tượng nào cũng được, hoặc không cần đối tượng nào bên ngoài mà lấy ngay chánh niệm tỉnh giác làm đối tượng cũng được. Chánh niệm là tâm không thất niệm, tạp niệm và vọng niệm, nên đôi lúc chánh niệm có cái tên gọi khác là vô niệm. Tỉnh giác là không mê mờ đối với thực tại (trạng thái đang là), không bị ý niệm, tư tưởng, quan niệm, tình cảm v.v… che lấp. Tánh biết trong sáng tự nhiên luôn có đức tính sáng suốt, định tĩnh, trong lành và ung dung tự tại trong vạn pháp, chỉ có bản ngã tham sân si mới tự làm khổ mình mà thôi.
“Phục vụ để hoàn toàn” là lấy việc làm lợi mình lợi người, vô ngã vị tha, để thể hiện đời sống giới định tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến (giác ngộ giải thoát). “Hoàn toàn để phục vụ” làsống trọn vẹn trong giới định tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến để thể hiện đời sống tự giác, giác tha. Đây chính là đời sống của người Phật tử chân chính: “Thuận pháp tùy duyên, vô ngã vị tha”. Tuy nhiên cũng cần thận trọng, chú tâm quan sát thật rõ ràng trạng thái thân tâm để không rơi vào cái ngã vi tế: Đó là cái ngã “niềm vui sống trọn vẹn cùng hơi thở” hoặc cái ngã vị tha “phục vụ để hoàn toàn, hoàn toàn để phục vụ”. Cần nhớ rằng giải thoát giác ngộ không phải là trạng thái mà chỉ là thái độ thấy biết mà thôi.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Trong Thực Tại Hiện Tiền 2, con đọc thấy một đoạn Thầy viết rằng: “có tinh tấn mà không có đức tin thì chỉ là nỗ lực của bản ngã”, điều này làm con gợi nhớ đến một người khá thú vị và cũng nổi tiếng… Nhưng bạch thầy, vì sao có tinh tấn mà thiếu đức tin lại là nỗ lực của bản ngã ạ?
Xem câu trả lời
Bài đó thầy viết để nói về sự quân bình của ngũ căn, ngũ lực: Tín, tấn, niệm, định, tuệ. Tinh tấn là con dao 2 lưỡi, nó có thể phục vụ cho cả thiện lẫn ác. Vì vậy nếu tinh tấn chưa đi kèm với chánh kiến (tuệ) thì ít nhất cũng phải đi kèm với đức tin (tín). Tinh tấn đi kèm với trí tuệ gọi là tùy pháp hành, đi kèm với đức tin gọi là tùy tín hành. Tuy nhiên đức tin ở đây không phải là mê tín hay dựa vào tha lực mà tin vào pháp đang vận hành nơi chính mình, đó là tánh thấy của tâm và thực tại tánh của pháp. Tánh thấy thể hiện nơi chánh niệm tỉnh giác, thực tại tánh thể hiện nơi thân, thọ, tâm, pháp mà mỗi người sẵn có. Thấy hoặc tin như vậy mới có thể tinh tấn đúng. Nếu không tinh tấn chỉ là công cụ hay nỗ lực của bản ngã muốn đạt được tham vọng của mình mà thôi. Như vậy có hai loại tinh tấn: Tinh tấn thuận pháp và tinh tấn thuận ngã. Theo Nho giáo, thuận pháp gọi là thuận thiên (tự nhiên), thuận ngã gọi là nghịch thiên, mà “thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong” cũng đúng vậy.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, mỗi khi tâm con lo lắng bồn chồn, con hay niệm thầm “tinh tấn, tinh tấn” lặp lại nhiều lần thì có khi con thấy hiệu quả hơn là niệm Phật Pháp Tăng như miêu tả trong sách Thanh Tịnh Đạo. Khi niệm “tinh tấn” lặp lại một thời gian như trên con thấy tâm hoan hỷ và định tĩnh lại. Từ điều trên con thắc mắc là có phải niệm bất kỳ một khái niệm nào mà khiến tâm mình định tĩnh trở lại thì cũng đều có thể coi là pháp tu tốt phải không thưa thầy?
Xem câu trả lời
Niệm gì không quan trọng, mà niệm thế nào mới đáng quan tâm. Mục đích của niệm là thoát khỏi thất niệm, tạp niệm và vọng niệm để đưa tâm đến nhất niệm hay định tĩnh. Vậy nếu con niệm “tinh tấn” mà định tĩnh được là đã đạt được mục đích của niệm rồi. Đức Phật giới thiệu nhiều đề mục khác nhau là để mỗi người tự chọn sao cho thích hợp và hiệu quả với mình là được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, trong kinh Niệm xứ thường lặp lại: “vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm.” Thưa thầy đã an trú chánh niệm rồi sao còn phải “hướng đến” chánh niệm nữa ạ? Như vậy chẳng phải giống như tìm cái mình cần tìm trong khi nó đang nằm trong tay không ạ?
Xem câu trả lời
Câu hỏi của con thật thật tuyệt vời. Từ lâu mỗi lần giảng đến đoạn kinh trên thầy đều phải đính chính cụm từ “với hy vọng hướng đến” này. Cụm từ này có nguyên văn Pàli như sau: “…yàvad eva ñàna-mattàya patissati-mattàya”. Yàvad eva có nghĩa là “tới…cần thiết” hay “vừa đủ” (as much as it is necessary). Mattàya có nghĩa là với mức độ. Vậy cụm từ trên dịch là: “Với mức độ niệm tuệ vừa đủ”. Do đó đoạn kinh trên nên được dịch là: “Vị ấy an trú niệm như vậy với mức độ tuệ tri và ức niệm vừa đủ”. Bởi vì chánh niệm tỉnh giác dư hay thiếu đều không thể thấy được thực tánh pháp. Trong cụm từ Pàli trên không hề có một dấu hiệu nào là “với hy vọng hướng đến” cả. Đọc kinh nhất là đọc bản dịch thật nguy hiểm, vì tam sao thất bổn, do đó cần đối chiếu với nguyên văn và nhất là đối chiếu với sự thật tự mình thực chứng mới đúng được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy! Con có hùn phước cất chùa. Một Cô tu nữ khuyên con nên thường xuyên niệm tưởng phước thí ấy, nhưng con không có kinh nghiệm thực tập niệm thí. Xin thầy dạy cho con một số gợi ý về phương pháp thực tập niệm thí để con có thể ứng dụng. Con xin cám ơn thầy.
Xem câu trả lời
Niệm thí là nhớ lại một việc thiện đã làm trong quá khứ với mục đính tự nhắc mình luôn hoan hỷ với điều thiện. Trong đời sống không phải ai cũng có thể chỉ làm thiện mà không làm ác, vì vậy nhắc lại điều thiện đã làm để luôn an trú thân tâm trong thiện pháp, vì nhớ lại điều thiện cũng chính là một hành động của thiện tâm, dù lúc đó con không làm được một việc thiện gì bên ngoài như san sẻ, cúng dường, phục vụ v.v… Nhất là khi tâm con đang có chiều hướng bất thiện thì việc nhớ lại điều thiện để tự nhắc mình không rơi vào việc ác thì rất tốt. Tuy nhiên, không nên nhớ lại việc thiện với tâm tự mãn, ngã mạn, thấy mình có công đức v.v… vì cái tâm nhớ đó là bất thiện. Trong trường hợp đó quên đi có khi tốt hơn. Nếu một người tâm luôn an trú trong thiện pháp, thường làm việc thiện thì nên chú tâm vào việc thiện hiện tại hơn là nhớ về điều thiện trong quá khứ. Và trường hợp người sống chánh niệm tỉnh giác thì chẳng cần phải nhớ gì trong quá khứ cả, dù là quá khứ thiện hay bất thiện.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Namo Buddhaya! Kinh le Tam Bao,
Thua Thay, con co hai cau hoi xin Thay vui long giang ro. Cam on Thay nhieu.
1- Chanh niem dang truoc mat la nhu the nao?
2- Trong sau coi: Troi, nguoi, atula, nga qui, bang sinh, dia nguc, thi loai qui than la loai gi va thuoc coi nao?
Qui than co than thong, ma than thong do cong phu thien moi dat duoc. Nhu vay sao goi la qui? la than?
Kinh chuc Thay phap the khinh an,chung sanh hang do.
Xem câu trả lời
1) Trước mặt có nghĩa là hiện tiền, tức hiện tại. Ám chỉ rằng chánh niệm luôn hiện diện, không thất niệm (niệm bị biến mất vào quá khứ hoặc tương lai). Đối tượng của chánh niệm là thực tại thân tâm ngay đây và bây giờ, không phải là một khái niệm hay tưởng tượng.
2) Quỉ thần nói chung là Atula. Như nói quỉ Dạ-xoa, thần núi v.v. Thực ra có hai loại Atula: Atula thiên thuộc cõi chư thiên thấp (nói theo thuật ngũ Đạo gia thì gọi là địa tiên) nhưng cao hơn cõi người, và một loại Atula ác đạo thấp hơn cõi người. Những loại Atula, Khẩn-na-la, Kim-xí điểu, Dạ-xoa, Long Vương v.v. tuy khác nhau về duyên nghiệp nhưng mức độ tương đương và cao hơn cõi người, được gọi chung là thần. Chính vì vậy mà những vị thần này có pháp thuật chứ không phải thần thông (Những loại thần này trước kia khi làm người cố gắng tập trung tâm luyện pháp thuật chứ chưa phải là thần thông của thiền sắc giới) nên họ không cần phải đắc định sắc giới.