Kính thưa thầy! Con đã có duyên đọc được những trang trả lời thắc mắc của các vị đồng tu khắp năm châu gởi về nhờ thầy chỉ dạy. Đây là những bài học ngàn vàng mua không nổi. Nhờ đâu mà thầy có thể thấu triệt Phật pháp một cách rốt ráo như vậy? Trong những bộ Kinh đại thừa, ví dụ như Kim Cang kinh, nếu con đọc hiểu và ứng dụng vào hoàn cảnh sống hiện tại thì như vậy có phải là con đang tu không? Xin thầy từ bi chỉ dạy thêm cho con hiểu một cách cụ thể là làm sao để buông cái bản ngã đang lăng xăng tạo tác? Đạt vô ngã tức đạt Niết-bàn phải không thưa thầy? Nói như thế có phải là con đang tham không? Con mong tin thầy.
Bản chất của cái ngã lăng xăng là luôn tìm cách bám trụ. Cái gì nó ưa thích thì liền tham đắm, cái gì nó ghét bỏ thì cố loại trừ. Về tri thức cũng vậy nó bám vào tư kiến của mình rồi hình thành kết luận và mắc kẹt trong đó mà thành tà kiến. Do đó, trong thiền Tứ Niệm Xứ đức Phật cảnh báo: “Sống không nương tựa, không chấp trước điều gì ở đời” và gần 700 năm sau Kinh Kim Cang cũng dạy: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”. Khoảng 400 năm sau nữa Ngài Huệ Năng khi nghe Ngài Hoàng Nhẫn đọc câu này liền ngộ.
Buông cái ta lăng xăng tạo tác cũng đồng nghĩa với “Không nương tựa, không chấp trước điều gì ở đời”. Nếu thấy cái ta chỉ là ảo tưởng liền không bám trụ vào nó thì gọi là buông, lúc đó không còn cái ta ảo tưởng che lấp nên thực tánh liền hiển lộ trong tánh thấy, nên Kinh Viên Giác gọi là “Tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác”. Đó chính là ý nghĩa đích thực của Thập Độ Ba-la-mật (Pàramì). Sống được như vậy thì chữ tu không còn là nỗ lực của bản ngã nữa, nên Phật gọi đó là “sống thuận Pháp” (Dhammànudhamma patipanno viharati).
Để sống được vô ngã thuận pháp chỉ cần tại đây và bây giờ thường tinh tấn chánh niệm tỉnh giác hay thận trọng chú tâm quan sát ngay nơi mỗi động tịnh của thực tại thân tâm thì bản ngã vô minh ái dục không còn cơ hội xen vào bám níu và lăng xăng tạo tác ra Tập đế. Không Tập đế thì Khổ đế cũng không còn. Không còn Tập đế và Khổ đế thì ngay đó chính là Đạo đế và Diệt đế (Niết-bàn). Chúng ta nên nói Niết-bàn là vô ngã hoặc nói chấm dứt hoàn toàn bản ngã tham sân si là Niết-bàn thì đúng hơn.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Sư, con có thắc mắc về việc hành chánh niệm tỉnh giác xin Sư chỉ giáo. Theo như lời hướng dẫn của một vài thiền sư (như ngài Goenka và ngài U.Tejaniya), nếu con nhớ và hiểu không nhầm thì có xu hướng dạy cho thiền sinh có thói quen giữ chánh niệm tỉnh giác, tức là tạo “đà” chánh niệm tỉnh giác để sau khóa tu họ vẫn có “đà” đó để tiếp tục trong cuộc sống hàng ngày. Nhưng con băn khoăn như vậy có biến sự tỉnh giác thành một thói quen máy móc không mà trở thành thiếu tỉnh giác? Và phải chăng chánh niệm tỉnh giác không thể tập luyện hay vun trồng được? Chẳng phải kinh nghiệm trong khóa tu sẽ quy định những gì xảy ra trong những ngày tới của họ sao?
Xem câu trả lời
Chánh niệm là trọn vẹn với thực tại thân thọ tâm pháp, và tỉnh giác là trực nhận thực tại đó một cách trong sáng trung thực, không qua bất kỳ khái niệm nào. Như vậy chánh niệm tỉnh giác chỉ xảy ra tại đây và bây giờ thôi, nên không thể rèn luyện cho thành thói quen để “lấy đà” cho ngày mai được. Rèn luyện là dùng ý chí để tập thành thói quen, nhưng chính thói quen và ý chí là hai trở ngại làm cho tâm mất chánh niệm tỉnh giác. “Lấy đà” là chuẩn bị cho một kết quả tương lai, trong khi chánh niệm tỉnh giác thì phải là đối tượng thực tánh ngay trong hiện tại. Chánh niệm tỉnh giác không phải là công cụ của bản ngã để đạt được mục đích của nó, mà chính là khi buông cái ngã lăng xăng tạo tác xuống thì chánh niệm tỉnh giác liền xuất hiện một cách tự nhiên, vô ngã. Nhiều người hành thiền tuệ nhưng lại sử dụng tầm tứ của thiền định mà tưởng là đang hành chánh niệm tỉnh giác. Đó là sai lầm rất nghiêm trọng. Tầm tứ là hướng tâm tìm kiếm một đối tượng đã được chọn trước, trong khi chánh niệm tỉnh giác là thái độ trong sáng trọn vẹn với thực tại như nó đang xuất hiện một cách hoàn toàn tự nhiên không chọn lựa và tìm kiếm.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy! Có những khoảnh khắc con đã buông và không mong muốn bất cứ điều gì. Nhưng đúng như thầy đã nói, con thấy ngay sau đó bản ngã ở đâu lại ùn ùn kéo đến với ý đồ muốn giữ sự an lạc nơi thân và nơi tâm.
1. Vậy cho con hỏi, cái khoảnh khắc “không mong muốn” đó có phải là “chánh niệm tỉnh giác” chưa hay mới chỉ là “thấy vết trâu” thôi ạ?
2. Mặc dù con biết trạng thái đó đến và đi là việc của Pháp, song con vẫn muốn nhận thêm lời khuyên cụ thể hơn từ thầy. Mong thầy hoan hỷ cho con lời khuyên ạ. Con thành kính tri ân thầy.
Con vẫn chưa thấy rõ trạng tháibuông và thái độbuông khác nhau thế nào. Buông không quan trọng ở trạng thái mà ở thái độ. Nếu là buông trạng thái thì buông được trạng thái này vẫn còn trạng thái khác, như vậy chỉ thay đổi trạng thái chứ không phải thực sự buông. Cho nên buông trạng thái thì vẫn còn là hành động hữu vi tạo tác. Buông như vậy có thể chỉ là lấy bản ngã này loại trừ bản ngã kia, hay nói dễ hiểu hơn là lấy tư tưởng buông để buông tư tưởng, và dĩ nhiên trạng thái buông ấy chỉ là kết quả của tư tưởng (bản ngã) mà thôi. Trong thái độ buông không có bản ngã lăng xăng tạo tác, hay nói cách khác, không có hành động buông nào cả mà ngay khi vắng bặt cái ta ảo tưởng lăng xăng tạo tác thì tánh biết liền sáng suốt, định tĩnh, trong lành hay tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác nên gọi là buông .
Không mong muốn không hẳn là chánh niệm tỉnh giác mà có thể là tâm si. Vấn đề không phải mong muốn hay không mong muốn mà có sáng suốt, định tĩnh, trong lành để thấy mong muốn đó hay không. Nếu mong muốn phát xuất từ bản ngã tham ái thì không có chánh niệm tỉnh giác. Nếu mong muốn phát xuất từ trí tuệ thì đương nhiên là có chánh niệm tỉnh giác rồi.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy, nếu trước khi chết tâm vẫn giữ được chánh niệm tỉnh giác thì kiếp sau tái sinh cõi nào?
Con cám ơn Thầy!
Xem câu trả lời
Nếu con phân vân không biết mình sẽ tái sinh cõi nào thì làm sao mà chánh niệm tỉnh giác được, còn nếu con thật sự chánh niệm tỉnh giác thì đâu cần phải quan tâm sau khi chết sinh về đâu!
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy!
Nghe theo lời Thầy dạy: Khi ngồi Thiền nên buông ra, không cần lập trình thời gian ngồi, tùy duyên thuận pháp. Hiện nay con hành thiền thường xuyên vào buổi sáng trước khi đi làm: khi thì lúc 5 giờ, khi thì 5:30 hay 6 giờ… Còn buổi tối thì không cố định, lúc có lúc không, có lúc 6 giờ, có lúc 10 giờ, có khi ngủ một giấc rồi dậy ngồi thiền lúc 1, 2 giờ khuya. Khi ngổi thì có lúc buông ra, thả lỏng, có lúc niệm hơi thở, có lúc tâm biết sự xúc chạm, cảm thọ trong thân, có lúc thấy mình đang ngồi, hay nghe âm thanh, có lúc cảm thấy dễ chịu vì biết tâm đang định và an lạc, có lúc phóng tâm một hồi sau mới biết. Việc thay đổi đối tượng này tự động xảy ra, con không cố ý, cứ để tâm buông xả và tự động thay đổi đối tượng. Có lúc tâm xao động con cũng biết và để nó tự động một lúc thì hết. Có bữa tự nhiên con thích niệm hơi thở, con cứ làm thế một hồi lâu đến khi tự động nó thấy không thích nữa thì con buông ra. Thời gian ngồi con cũng không quan tâm, khi thì 45 phút, 1 tiếng hay có bữa đến 1 tiếng rưỡi. Hiện nay con cũng đang tập chánh niệm cái “tâm thấy”. Khi thấy và nhìn sự vật chung quanh con tập chánh niệm sự thấy và nhìn này. Nói chung, con cảm thấy việc tu tập theo hướng như Thầy dạy là thận trọng chú tâm quan sát khi hành động hàng ngày và khi ngồi Thiền thì buông ra, tùy duyên, không gò ép tâm, không cố gắng tâm phải thế này thế kia thì con thấy việc Tu và Thiền rất dễ dàng, dễ chịu. Trong công việc và cuộc sống con cũng đang áp dụng theo như vậy: cứ để pháp vận hành, không lo lắng thái quá. Có lẽ tu hành theo cách này hợp với căn cơ trình độ của con. Còn việc tiến bộ đến đâu, nhanh hay chậm là việc của Pháp.
Con kính trình Thầy và xin Thầy chỉ dạy. Nam mô Bổn Sư Thích ca Mâu ni Phật
Xem câu trả lời
Cứ hành tự nhiên như vậy là tốt. Chủ yếu là thấy pháp đúng với bản chất tự nhiên của nó chứ không phải là làm theo ý đồ muốn trở thành, muốn đạt được của bản ngã. Trong thiền tùy duyên thuận pháp, đối tượng không quan trọng mà thái độ thấy biết mới là chủ yếu. Khi thái độ thấy biết rỗng lặng trong sáng – không bị cái ta ảo tưởng xen vào, thì mọi đối tượng được trả về thực tánh nên gọi là thấy thực tánh. Đừng cố gắng đạt được hay duy trì trạng thái nào mà quan trọng là thái độ buông mọi ý đồ lăng xăng của bản ngã để cho tâm trở về với tự tánh sáng suốt, định tĩnh, trong lành của nó, để nó tự soi chiếu một cách vô tâm, vô ngã. Nên để đối tượng tự đến tự đi hơn là chọn lựa đối tượng nhất định. Giống như người canh gác chỉ lo phát hiện đối tượng chứ không đặc biệt canh giữ một đối tượng nào, trừ phi đối tượng ấy buộc anh ta phải theo dõi. Thiền không tính bằng thời gian bao lâu, mà tính bằng từng phút giây trọn vẹn với hiện tại. Và cũng không ràng buộc vào thế ngồi mà là sáng suốt, định tĩnh, trong lành trong mọi tư thế ở mọi lúc mọi nơi.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy. Kính xin Thầy giải đáp thắc mắc này của con. Thầy đã đã dạy rằng sáng suốt, định tĩnh, trong lành hay thận trong, chú tâm, quan sát là do tánh biết tự động ứng ra, chúng ta không nên (mà cũng không thể) chủ động tạo ra tình trạng sáng suốt định tĩnh trong lành hoặc thận trong chú tâm quan sát. Theo con để ý, thông thường khi lục căn tiếp xúc với lục trần, bản ngã liền lăng xăng tạo tác một cách tự động. Thầy lại dạy rằng, chỉ cần dẹp bỏ cái lăng xăng tạo tác của bản ngã thì tánh biết tự động hiển lộ, liền có thận trọng chú tâm quan sát hoặc sáng suốt định tĩnh trong lành. Như vậy, cái mấu chốt là làm sao dẹp được cái lăng xăng tạo tác này. Mà nếu làm như vậy thì không còn là vô vi nữa, tức là nơi đây đã có phi hữu ái (dẹp bỏ lăng xăng). Như vậy không thể nói là không cần làm gì cả (vô vi) mà lại có được sáng suốt định tĩnh trong lành. Thưa thầy đây là chỗ chưa hiểu của con.
Xem câu trả lời
Anh đừng lý luận, cứ nhìn vào thực tại thì liền thấy ra đâu là thực tánh của danh sắc, đâu là bản ngã lăng xăng tạo tác ngay. Nếu anh buông được cái ta thì tánh biết liền thấy pháp. Nhớ rằng buông là một thái độ chứ không là một hành động tạo tác, nên buông cái ta là vô vi chứ không phải hữu vi, trừ phi anh lấy cái ta chống lại cái ta (cố gắng buông) thì mới là hữu vi tạo tác. Nếu cái ta vẫn còn lăng xăng tạo tác thì đó là dịp để thấy ra cái ta sinh diệt và tạo tác thế nào. Anh đừng lo, tánh thấy sẽ thấy tất cả, vậy thì đâu cần lăng xăng tạo tác để làm gì.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Bạch Sư, Sư thường dạy khi hữu sự thì cần phải thận trọng, chú tâm, quan sát. Con chưa hiểu rõ chữ quan sát ở đây là quan sát cái gì, xin Sư hoan hỉ chỉ dạy cho con.
Trong thiền Minh Sát Tuệ Vipassanà việc quan sát hay soi chiếu thực tại là trọng tâm, nhờ đó mới thấy ra thực tánh pháp, không bị rơi vào ảo tưởng, vọng thức. Hữu sự hay động dụng có nghĩa là thân tâm đang được sử dụng trong một trạng thái hay một sự việc nào đó. Ví dụ như đang lái xe tất nhiên phải thận trọng, chú tâm và quan sát mọi sự kiện liên hệ, nghĩa là phải tỉnh táo để biết rõ thân tâm trong tương giao với hoàn cảnh xung quanh. Quan sát là biết thực tại một cách tỉnh thức, không mê mờ, không qua lăng kính của tình cảm hay lý trí như thương ghét, quan niệm, thành kiến v.v… để trực nhận sự việc như nó là. Thận trọng, chú tâm, quan sát chính là tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác được thực hiện một cách cụ thể và dễ dàng hơn mà thôi.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, con vẫn thường nghe dạy về tinh tấn trong đó có câu “tinh tấn vừa đủ” hoặc “chú tâm vừa đủ”. Con chưa rõ lắm thế nào là vừa đủ. Vì trong thực hành, tâm con thường phóng dật và thiếu tỉnh giác, con bị vọng niệm kéo đi, một lát sau con mới nhận ra. Nhưng khi con chú tâm quan sát quá mức thì hình như con lại bị căng thẳng và đau đầu. Vậy xin thầy giải thích giúp con chữ “vừa đủ” ạ. Con cảm ơn thầy.
Xem câu trả lời
Có hai loại tinh tấn: Một là cố gắng của bản ngã, hai là ứng ra từ tự tánh pháp. Khi tinh tấn với nỗ lực của bản ngã lý trí thì thường là chủ quan không chính xác, hoặc là thiếu hoặc là dư, khó mà vừa đủ được. Tốt nhất là buông mọi ý đồ “cố gắng thực hành” của bản ngã ra thì lập tức tinh tấn sẽ tự ứng một cách chính xác tùy theo đối tượng tự nhiên của nó. Xin vui lòng xem cuốn Sống Trong Thực Tại, chương 5: “Nhiệt tâm cần mẫn” trong mục Thư Viện.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy. Dạo trước, con hay quán nghiệp theo cách: thấy tâm loạn, không diệt trừ, biết là do nghiệp và chân thành sám hối. Nhưng con thấy quán nghiệp như vậy cũng không có kết quả lắm vì tâm bất thiện vẫn khởi liên tục. Vọng niệm vẫn cứ dắt con đi. Con không biết cần áp dụng Pháp nào để hỗ trợ được ạ?
Và gần đây, khi con phát hiện trong tâm khởi lên bất thiện pháp, con thấy nó là bất thiện pháp, con không làm theo bất thiện pháp này, và kiên quyết loại bỏ nó. Vậy có phải là con đang “ức chế tâm” không ạ?
Con thành kính lạy thầy ạ!
Xem câu trả lời
Sai lầm của bạn là cứ loay hoay giải quyết, cố gắng ổn định, nôn nóng đạt được kết quả như ý. Tất cả hoạt động này đều phát xuất từ cái ta ảo tưởng, vì vậy bạn không đủ bình thản và kiên nhẫn để thấy được thực tánh pháp theo thiền Vipassanà hay thiền kiến tánh. Phải chăng bạn muốn tâm an ổn để được thường, lạc, ngã? Nhưng nếu không có các pháp xuất hiện trong tâm bạn thì làm sao thấy được bản chất vô thường, khổ, vô ngã của các pháp ấy, làm sao bạn thấy được đâu là khổ, đâu là nguyên nhân gây khổ, đâu là sự chấm dứt khổ và đâu là những yếu tố chấm dứt nguyên nhân gây khổ; làm sao bạn thấy được nghiệp và nghiệp quả vận hành thế nào?…. Nói tóm lại bạn muốn có đáp số của một bài toán khó ngay mà không muốn thông suốt được toàn bộ những vấn đề khúc mắc mà bài toán đưa ra. Do đó Luận Bảo Vương Tam Muội nói rằng: “Nghiên cứu tâm đừng cầu dễ dãi, dễ dãi thì không thể nào thấu triệt được vì quá nôn nóng muốn vượt cấp.”Sai lầm cơ bản là bạn đặtgiải thoát trước giác ngộ, mà trên thực tế bạn phảigiác ngộ mới có giải thoát. Hơn nữa giải thoát là giải thoát khỏi bản ngã mong cầu, chứ không phải đạt được mong cầu giải thoát của bản ngã.