Thưa Thầy, con xin hỏi: Vì sao nhiều vị tu rất tốt nhưng về già bị lẫn rất nặng, nếu họ thường chánh niệm tỉnh giác hay liễu liễu thường tri thì mọi sự đều minh bạch làm sao bị lú lẫn được? Như vậy do tu chưa đúng hay còn lý do nào khác, xin thầy chỉ dạy.
Tu hành tốt nghĩa là gieo nhân đúng tốt có thể giác ngộ giải thoát hoàn toàn hoặc nếu còn tái sinh thì sẽ cho quả lành trong những kiếp sau. Còn một người sinh ra phần lớn bị chi phối bởi sinh nghiệp (Janakakamma)là do nhân đã tạo trong những kiếp sống trước, sẽ cho quả trong sinh mệnh hiên tại của người này. Cho nên nghiệp quả của sinh mệnh (= sinh nghiệp) có thể tiên đoán được qua lá số tử vi. Đó là mặt thụ động bất khả kháng của nghiệp quả mà có nhiều chủ thuyết cho là số mệnh. Theo Phật giáo thì đời sống không phải chỉ là mặt quả trong sinh nghiệp (tạm xem như số mệnh đi), nhưng còn có mặt chủ động tạo nhân mới nữa, đó là thái độ của mỗi người đối với sinh mệnh mình. Nếu tạo nhân tốt có thể giúp cải thiện nghiệp quả về sau. Tuy nói chuyển nghiệp, nhưng người tu chỉ lo chuyển nhân chứ không lo chuyển quả. Và tuy nói đức năng thắng số nhưng có chuyển được nghiệp quả thì cũng chỉ ở một mức độ nào đó thôi, dù đã giác ngộ giải thoát, vì quả trong sinh nghiệp khó mà loại trừ hẳn được, trừ phi nhập vô dư Niết-bàn.
Đức Phật dạy nghiệp quả là bất khả tư nghì (acinteyya). Không nên đánh giá, phê bình hay suy đoán chủ quan, vì nghĩ ngợi nhiều quá về điều này có thể đưa đến “tẩu hỏa nhập ma”. Đức Phật là bậc Toàn Giác vẫn bị rất nhiều nạn và còn bị đau bụng mới nhập diệt. Đức Chúa bị hành hình trên cây thánh giá đến chết.. Ngài Mục Kiền Liên thần thông quảng đại mà chết bị phân thây v.v… Cho nên, những người tu hành tốt họ có thể giác ngộ giải thoát hay có phước quả về sau, còn trong sinh nghiệp của kiếp sống hiện tại thì vẫn phải nhận lấy hậu quả của nghiệp quá khứ như thường. Như vậy tuy có chánh niệm tỉnh giác nhưng đến tuổi già, tế bào não bị suy yếu vẫn có thể quên. Chánh niệm tuy cũng có nghĩa là nhớ (rememberance) nhưng nghĩa trong thiền là không bỏ quên thực tại hay tâm trọn vẹn với thực tại (mindfulness) nên nếu do nghiệp hay do tế bào não suy nhược thì có thể chuyện gì qua là quên ngay, nhưng với thực tại thì vẫn minh bạch. Vậy cần phải phân biệt giữa hai trạng thái quên mà vẫn minh bạch với quên mà lú lẫn.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy,
Thầy dạy rằng lúc động dụng thì “thận trọng, chú tâm, quan sát” là thực hành Vipassanà rồi. Như vậy thì những người làm các công việc cần sự chú tâm cao như: thợ điêu khắc hay bác sĩ giải phẫu thì có phải thực chất là họ đang hành Thiền Vipassana không? Con nghĩ là nếu thận trọng, chú ý thuần túy thì Tâm để hoàn toàn trên đối tượng, còn hành Vipassanà thì Tâm phải để trong thân, chứ không tập trung hoàn toàn trên đối tượng, đồng thời khi đó ta phải ý thức, hay biết được sự chú tâm của mình. Con hiểu như vậy có đúng không ạ? Con kính xin Thầy chỉ dạy. Con xin cám ơn Thầy.
Thận trọng, chú tâm, quan sát là những tâm sở tự nhiên ai cũng có, nên bất cứ ai biết ứng dụng chúng một cách nhuần nhuyễn chính xác thì đều gặt hái được những kết quả như ý (về mọi phương diện). Một người nọ đang hành nghề xiếc, trong lúc anh ta đang biểu diễn đã đắc đạo quả ngay khi đức Phật nói một câu kệ, chính là nhờ nghề của anh ta đã giúp anh ta thiện xảo trong thận trọng, chú tâm, quan sát. Khi thận trọng chú tâm quan sát vượt khỏi mọi ý đồ của bản ngã thì chúng là tột đỉnh của chánh niệm tỉnh giác, lúc bấy giờ đối tượng của chúng là thực tại chân đế, Niết-bàn.
Không phải hành Vipassanà là tâm phải để trong thân mà là phải thận trọng chú tâm quan sát (tức tinh tấn chánh niệm tỉnh giác) trên đối tượng thân thọ tâm pháp. Như khi mắt thấy sắc thì tâm thấy mắt, thấy đối tượng của mắt (một vật bên ngoài), thấy sự tiếp xúc giữa mắt với sắc (cả ngoài cả trong), thấy tâm nào khởi lên nơi xúc, thấy sự sinh diệt của tâm đó v.v… vậy đâu có nhất thiết là đối tượng phải ở bên trong. Coi chừng tâm để bên trong là thiền định rồi không phải thiền tuệ đâu (ngoại tức chư duyên, nội tâm tĩnh chỉ là định), tùy thuận pháp trong ngoài (hay toàn diện) mà minh sát (vipassanà) mới gọi là tuệ quán chiếu. Phải nắm thật rõ nguyên lý mới hành, nếu không sẽ rất dễ bị lệch lạc.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Đầu tiên con xin đảnh lễ Sư, xin kính chúc Sư cùng chư Tăng tổ đình được nhiều sức khỏe, vô lượng an lạc và Phật sự viên thành! Thưa Sư, con hiện nay đang dần dần tập chánh niệm tỉnh thức trong sinh hoạt hằng ngày, sống bình thản không mong cầu, không hoài tưởng, khi làm việc gì con cũng suy nghĩ xem thiện hay bất thiện có lợi mình lợi người không, tuy nhiên khi dẫn đến hành động thì đôi khi con lại có tạo tác ngược với cái nghĩ! Xin Sư chỉ dạy thêm cho con làm sao để tập làm chủ được hành động đúng theo ý nghĩ của mình! Con cám ơn Sư.
Trong thiền Vipassanà chánh niệm tỉnh giác thuộc chánh kiến tức trực giác, không phải thuộc tư duy, lý luận, nên khi suy nghĩ tính toán ra thiện, bất thiện v.v… trước rồi mới hành động theo sau thì hành động và tư tưởng khó có thể ăn khớp nhau, làm sao gọi là chánh niệm tỉnh giác được. Chánh niệm tỉnh giác là trực tiếp khám phá thực tại như nó đang là, chứ không phải đã là hay sẽ là. Mục đích của chánh niệm tỉnh giác là trả thực tại về với bản chất thật của nó, và chỉ thấy nó như thế nào thì nó là như vậy chứ không phải ghép nó vào một khuôn khổ đạo đức nào. Đạo đức cao nhất là thấy hành động đúng với bản chất thật của nó, từ đó khám phá ra thiện ác đúng sai ngay trên bản chất thật của nó, không qua tư tưởng lý luận.
“Tập làm chủ được hành động theo ý nghĩ của mình” là thái độ ý chí của bản ngã, trong khi chánh niệm tỉnh giác thật sự là thái độ hoàn toàn vô ngã của tánh biết rỗng lặng trong sáng tự nhiên. Thiền Vipassanà chính là ngay khi buông xuống mọi nỗ lực của bản ngã ý chí thì lập tức chánh niệm tỉnh giác tự ứng một cách tự nhiên chính xác từ tánh biết lặng lẽ trong sáng và vô ngã. Hãy nắm vững nguyên lý này rồi mới nên hành, nếu không lại rơi vào quỹ đạo của bản ngã vô minh ái dục.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, năm mới con kính chúc Thầy cùng chư Tăng Ni được an lạc, tinh tấn trong tu tập. Bạch thầy, con nghĩ là thiền Vipassanà của Phật Giáo Nguyên Thủy với khán thoại đầu của Thiền Tông Trung Hoa có nhiều điểm giống nhau, nhưng con muốn hỏi là trong pháp hành thì “chánh niệm, tỉnh giác” và “khởi nghi tình” trong khán thoại đầu loại nào thù thắng hơn, mong Thầy chỉ dạy. Con kính lễ.
Mục đích của khán thoại đầu là dồn lý trí vọng thức (hữu ngã) vào ngõ cụt “bất khả tri” để tánh biết “tri bất tri thượng” (vô ngã) xuất hiện nguyên vẹn phản ánh trung thực toàn diện các pháp nên gọi là kiến tánh hay ngộ. Trong khi chánh niệm là tâm không vọng niệm, trọn vẹn với thực tại ở đây và bây giờ, nên tâm vô niệm, không lăng xăng tạo tác, rỗng lặng trong sáng, thấy rõ thực tánh pháp chân đế nên gọi là Vipassanà (minh kiến) hay thấy pháp (pháp nhãn). Đó là lý do tại sao Tổ Huệ Năng dạy lấy VÔ NIỆM để kiến tánh.
Vì tham công án là phương tiện thiện xảo đặt ra sau thời Tổ Huệ Năng nênkhông trực tiếp vô niệm mà lấy nghi tình làm “thời kỳ quá độ” để chuyển từ cái biết hữu ngãhữu niệm phân biệt của lý trí qua tánh biết vô ngã, vô niệm, vô phân biệt của tuệ giác mà hiệu ứng của nghi tình là sự bùng vỡ của ngộ. Còn chánh niệm tỉnh giác chính là vô niệm trực tiếp ứng ra từ tánh biết rỗng lặng trong sáng nên tự nó trọn vẹn với thực tánh chân đế.
Tóm lại, tham công án là phương tiện gián tiếp phải trải qua thời gian nghi tình đế kiến tánh, còn chánh niệm tỉnh giác là tự thân tánh giác thấy thực tánh chân đế không qua phương tiện nào. Tuy nhiên đó là nói chánh niệm tỉnh giác hay vô niệm đích thực thời kỳ tiền công án, còn hiện nay không ít trường phái thiền đã đưa chánh niệm tỉnh giác xuống mức độ nỗ lực tạo tác của bản ngã thì lại không bằng tham công án để loại cái ngã vọng niệm trước rồi mới thấy tánh sau, vì như vậy sẽ ít bị nguy cơ rơi vào sở đắc của bản ngã, khi chưa thực sự chánh niệm tỉnh giác.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính mong Thầy từ bi chỉ dạy cho con cách rải Tâm từ đến người thân đã mất hoặc người có oan trái với mình? Con xin tri ân Thầy.
Khi một người có nhiều tâm sân đến đỗi gây trở ngại cho chánh niệm tỉnh giác thì nên bổ túc bằng cách tu rải tâm từ. Tâm từ là một đề mục thiền định, nhưng rải tâm từ thì không cần phải vào nhất tâm an chỉ trong định xả, mà chỉ cần tâm dịu dàng, an tịnh, mát mẻ, hiền thiện và nhất là không sân là được. Khi hướng tâm vào trạng thái không sân cho đến lúc cảm nhận được sự an tịnh, dịu dàng, hiền thiện làm cho thân tâm mát mẻ trong lành thì tỏa năng lượng mát mẻ trong lành đó rộng ra tràn ngập cả căn phòng, rồi cả ngôi nhà, cả khu vườn, lan ra hàng xóm… mỗi ngày mỗi trải rộng ra cho đến khi tâm mát mẻ ấy trùm khắp tất cả không gian… Như vậy gọi là phát triển tâm từ vô lượng. khi đã thuần thục, nếu muốn có thể rải tâm từ đó đến những người cần rải tâm từ. Không nên chỉ ngồi lặp đi lặp lại câu “Nguyện cho tất cả chúng sanh được sự an vui” một cách máy móc, vô hồn.
Thực ra nếu một người hàng ngày có thể sống trong sáng suốt, định tĩnh, trong lành hoặc tinh tấn chánh niêm, tỉnh giác thì ngay lúc đó tâm không sân nên tự nó đã có tâm từ, không cần phải tu niệm tâm từ gì cả. Chính tâm từ này mới thật sự vô ngã vị tha, vì từ bi và trí tuệ luôn đi đôi với nhau. Chỉ khi tâm sân quá nhiều mới phải bổ túc pháp rải tâm từ mà thôi.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy, con vẫn chưa có khái niệm rõ phân biệt giữa Sắc Pháp và Danh Pháp. Kính mong thầy phân tích chỉ rõ giúp con. Con xin cảm ơn.
Trong pháp học, sắc pháp và danh pháp nói rộng ra thì thành một bộ Abhidhamma (Vi Diệu Pháp). Nhưng trong pháp hành thì thân và thân hành gọi là sắc pháp, tâm gọi là danh pháp. Cụ thể hơn, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân gọi là sắc pháp; ý gọi là danh pháp. Hoặc trong ngũ uẩn, sắc thuộc về sắc pháp; thọ, tưởng, hành, thức thuộc về danh pháp. Ví dụ khi đi là sắc thân di chuyển đó là sắc pháp, tâm biết được sắc thân đang di chuyển đó là danh pháp. Như vậy, với chánh niệm tỉnh giác thì khi đi chỉ có sắc di chuyển và tâm biết sắc di chuyển chứ không có ảo tưởng ta đi hay ta biết.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Sư, con trích một đoạn trong Sống Trong Thực Tại ở mục thư viện nhờ Sư giải thích thêm:
“Trong thiền Vipassanā, chánh niệm tỉnh giác là hai yếu tố cốt lõi, nhưng nếu thiếu tinh tấn thì vẫn không đủ lực để thể hiện giác niệm một cách đúng mức cần thiết cho sự quán chiếu trung thực.”
Con thắc mắc là đa phần các cố gắng và nỗ lực là tạo tác hữu vi của bản ngã. Vậy thì năng lượng của chánh tinh tấn này được lấy từ đâu? (Vì năng lượng của tà tinh tấn lấy từ bản ngã và ham muốn thành tựu hay loại bỏ cái gì đó của thực tại).
Con thấy vấn đề “tinh tấn” hay cố gắng này rất tinh tế. Xin Sư giải thêm cho con và các bạn đồng đạo được tỏ tường.
Thầy sẵn lòng trả lời những câu hỏi khi đã suy tư chiêm nghiệm hết sức mà vẫn không tự giải nghi được, lúc đó thầy chỉ gợi ý một chút thôi là thấy ngay. Thầy đã nói đừng học đạo để thỏa mãn lý trí. Một câu trả lời thật rành mạch cũng không giúp con giác ngộ được đâu, hãy tự mình khám phá thể nghiệm để thấy ra sự thật, không nên tìm lời giải nơi kinh điển hay bất kỳ vị thầy nào. Thầy nghĩ là con chưa đọc hết chương 5 nói về tinh tấn, hoặc con chỉ đọc phớt qua, rồi lại thắc mắc chính những điều mà thầy đã nói rõ trong đó, và trong các buổi giảng thầy cũng đã nói đi nói lại không biết bao nhiêu lần. Vậy có lẽ đã đến lúc tự con phải khám phá tinh tấn là gì mới được. Hãy tinh tấn lên đừng quá lười biếng giao khoán cho ngôn từ vay mượn từ một xác định của người khác như vậy. Kinh điền và thầy chỉ có nhiệm vụ gợi ý cho con tự thấy thôi.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, qua mục hỏi đáp này có một bạn có hỏi về vấn đề chánh niệm được “tạo đà” hay không và nếu như vậy có biến tỉnh giác thành một thói quen và trở thành thiếu tỉnh giác hay không (câu hỏi ngày 02/12/2010). Chúng con thấy câu hỏi và chủ đề này rất hay nên có trao đổi với nhau và có thắc mắc một vài điều trong này.
Theo cá nhân con thì con hiểu ý thầy muốn nói là, chánh niệm tỉnh giác là sống với hiện tại 100% nên không cần chuẩn bị lấy đà hay tạo thành thói quen hay hứa hẹn điều gì cho ngày mai. Và khi có hứa hẹn, mong muốn hay rèn luyện một điều gì cho ngày mai thì không còn là chánh niệm tỉnh giác nữa. Việc chọn lựa một vài đối tượng theo chủ ý ban đầu thường sử dụng tới yếu tố tầm tứ và bị lạc sang thiền định.
Và theo con hiểu ở một góc độ nào đấy khi thiền sinh này đang tu tập giữ chánh niệm thì cũng hiểu một phần rằng đấy cũng không hẳn là chánh niệm trong sáng thực thụ vì ở đây vẫn còn sử dụng đến ý chí, dù rất nhẹ như chỉ để duy trì hay biết mà thôi.
Về đoạn này không biết con đã hiểu được ý của thấy chưa: “Chánh niệm tỉnh giác không phải là công cụ của bản ngã để đạt được mục đích của nó, mà chính là khi buông cái ngã lăng xăng tạo tác xuống thì chánh niệm tỉnh giác liền xuất hiện một cách tự nhiên, vô ngã”, nhưng con nghĩ dẫu sao cũng cần một nỗ lực để duy trì hay biết, tức cũng chưa hẳn đã là chánh niệm tỉnh giác trong sáng.
Vì vậy theo con nếu giả sử đặt lại câu hỏi ban đầu là thiền sinh đang tu tập để tiến tới chánh niệm tỉnh giác trong sáng thực thụ trọn vẹn thì có được không ạ?
Còn điều này nữa, nếu con không nhầm thì ở trong Tuyển tập thư thầy bức thư số 34 thầy cũng có nói qua về điều này, con xin được trích dẫn: “… như một giai đoạn chuyển tiếp để chuẩn bị cho tâm có đủ chánh niệm tỉnh giác khả dĩ thâm nhập thực tại như thị của đệ nhất nghĩa đế, như vậy giai đoạn trên chỉ là dự bị cho hành giả trước khi vào thiền Vipassanà, chúng ta tạm gọi là “giai đoạn tiền Vipassanà”. Khi nào hành tướng của hầu hết thân, thọ, tâm, pháp đều được gọi đúng tên ngay khi nó diễn ra, không trước không sau, thì hành giả bắt đầu có khả năng đi thẳng vào thiền Vipassanà như giai đoạn sau đây ….. ”
Theo các điều con thắc mắc và hiểu là vậy, con mong được chỉ bảo của thầy. Con cảm ơn thầy.
Những điều con hiểu là đúng. Nếu một người có thể buông bản ngã dễ dàng thì chánh niệm tỉnh giác thật sự liền xuất hiện rất tự nhiên, rỗng lặng và trong sáng. Còn nếu cảm thấy khó buông được một cách tự nhiên, hoặc phải cố gắng buông thì tức là chưa thực sự buông. Tuy nhiên hành trình của bản ngã là tư tưởng và thời gian nên luôn gắn liền với quá khứ, vị lai hoặc đắm chìm trong hiện tại, vì vậy chỉ cần thận trọng, chú tâm, quan sát rõ ràng thực tại thì tư tưởng và thời gian biến mất, và thực tại danh sắc hiển lộ, lúc đó chính là tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác đích thực và vô ngã. Đó là cách tốt nhất để tiếp cận chánh niệm tỉnh giác thật sự.
Nếu cả hai tình huống chánh niệm tỉnh giác trên đều không sử dụng được, lúc đó mới dùng tới pháp hỗ trợ như niệm Phật, niệm tâm từ, niệm bất tịnh, niệm sự chết. Thà sử dụng những pháp hỗ trợ này còn hơn là theo một phương pháp cố định để hình thành thói quen quán tính, hoặc cố gắng chánh niệm tỉnh giác chủ quan lệch lạc theo tư kiến tư dục của mình để rồi “tạo đà” sai lầm, khó mà điều chỉnh lại được.
Cũng cần phải phân biệt hai loại tinh tấn: Một là ý chí của bản ngã, hai là không buông lung, phóng dật theo tư kiến tư dục của bản ngã. Nếu hành giả sử dụng loại thứ nhất thì nói là tinh tấn nhưng thực tế là đang chìu theo ý đồ của bản ngã, nghĩa là vẫn buông lung. Vì người ấy nỗ lực theo ý chủ quan của mình (tư kiến) và nỗ lực để đạt tới sở cầu (tư dục) chứ không phải là trọn vẹn phản ánh thực tại như nó là.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Namo Buddhaya!
Kính bạch thầy, từ ngày con tham dự khóa giảng 7 ngày của thầy ở Hà Nội (vào trung tuần tháng 4 năm 2010) đến nay con đã thôi không tụng Kinh nữa vì lời dạy trong Kinh đối với con rất trừu tượng khó thực hành trong cuộc sống. Nay con chỉ niệm Phật, sám hối và làm theo như lời thầy đã chỉ dạy là thận trọng, chú tâm, quan sát trong mọi công việc hàng ngày. Nhưng kết quả đến với con rất chậm, thất niệm vẫn rất nhiều. Con kính xin thầy hoan hỉ dạy rõ cho con cách sám hối như: sám hối cái gì? Sám hối thế nào? Hoặc tìm hiểu bài sám hối ở đâu? Có phải sám hối là thân, khẩu, ý sám hối không? Lạy Phật có phải là sám hối không? Con vô cùng tri ân công đức bố thí Pháp của thầy. Con kính mong thầy luôn an lạc ạ!
1) Khi đã biết sống khám phá sự thật thì con cứ nhiệt tình học ra bài học của mình, còn chậm hay nhanh là chuyện của pháp. không nên nóng vội. Sống khám phá pháp không phải để đạt được tình trạng lý tưởng như đã định trước, mà là không mê mờ trong pháp để học ra bài học mới mẻ từng giây từng phút. Pháp luôn vô ngã nên chỉ cần thấy pháp thôi chứ đâu có cái tôi để mong đạt được như ý mình. Hãy cảm nhận được sự hứng thú trong từng giây phút khám phá cái thật hơn là mong cầu đạt được nó. Đạt được là đã rơi vào cái ngã rồi làm sao thấy pháp được? Thất niệm là tâm bôn ba tìm kiếm bên ngoài, không còn trọn vẹn với thức tại thân tâm nữa. Khi nhận ra tình trạng thất niệm, tạp niệm hay vọng niệm thì ngay đó đã là chánh niệm rồi, chứ không cần dùng một niệm nào đó để cố gắng nắm bắt thực tại. Thường người ta hướng tâm truy tìm và nắm bắt pháp (bằng tầm, tứ) như một mục đích để đạt đến, chứ không thực sự trở về thực tại để thấy nó như nó đang là (bằng chánh niệm – tỉnh giác), nên tâm vẫn cứ thường dao động bất an. Chánh niệm thật sự thì vô tâm, vô niệm, vô ngã nên mới gọi là không, vô tướng, vô tác, vô nguyện, như Phật đã dạy: “Quá khứ không truy tìm, tương lai không ước vọng, chỉ có pháp hiện tại, tuệ quán chính là đây”. Hãy nhớ: Thất niệm như thật biết thất niệm đó chính là chánh niệm tỉnh giác.
2) Tạ ơn và sám hối là việc nên tự nhắc nhở mình hàng ngày. Chúng ta được sinh làm người để học bài học giác ngộ là đã mang ơn Tam Bảo, Trời Đất, Thầy Tổ, Cha Mẹ, Chư Thiên và vô số chúng sanh nên trước tiên cần phải chân thành biết ơn và tạ ơn tất cả. Ngay cả những pháp đối nghịch cũng đã giúp chúng ta học được nhiều bài học quý giá như lòng nhẫn nại, từ bi v.v. Đồng thời khi còn cái ta vô minh ái dục chúng ta đã vì lòng ích kỷ cá nhân mà đối nghịch với Tam Bảo, Trời Đất, chư Thánh Hiền, Bồ-tát và Cha Mẹ, Thầy Tổ … cũng như gây khổ đau tổn hại đến vô số chúng sanh. Do đó, tạ ơn – sám hối là pháp mà bất cứ ai bắt đầu ý thức được sự quan hệ mật thiết trong cuộc sống trùng trùng duyên khởi đều tự thấy ra đó là trách nhiệm của mình.
Cũng không cần phải có một phương pháp tạ ơn sám hối nào nhất định, mà chủ yếu là ở tấm lòng. Cách thể hiện thì tùy người tùy hoàn cảnh. Nên tự mình thấy ra hơn là làm theo một bài bản sẵn có. Khi chúng ta đọc mãi một lời tạ ơn sám hối soạn sẵn thì dễ rơi vào máy móc, quán tính và lâu ngày sẽ không còn sinh khí để cảm ứng xúc động nữa. Và cụ thể hơn nữa là biểu hiện bằng hành động thiết thực đối với Tam Bảo, Cha Mẹ, Thầy Tổ, những người, vật và hoàn cảnh xung quanh với tâm tôn kính, thương yêu, thông cảm, bao dung, tha thứ v.v… Đó mới thật sự là tạ ơn sám hối.