Trước hết thầy muốn xác định lại từ tác ý con dùng trong câu hỏi có nghĩa gì. TÁC Ý là cetasikà có nghĩa là tâm hướng đúng hay sai trên đối tượng, thường bị dùng nhầm lẫn với TƯ TÁC cetanà là chủ ý thiện, bất thiện hay duy tác trên đối tượng. Nếu từ tác ý con dùng có nghĩa là hướng tâm đúng thì con chỉ thấy 3 ái như thực tánh cúa chúng và chỉ thấy chúng tự sinh tự diệt chứ không cần có chủ ý buông. Còn nếu ý con muốn nói là con có chủ ý buông 3 ái xuống thì đó là tư tác thiện mang tính tinh tấn kiểu thiền định hơn là thiền tuệ, nên khi buông 3 trạng thái ái ấy con thấy tâm nhẹ nhàng, bớt dính mắc (vào trần cảnh) và ổn định hơn. Bước đầu như vậy cũng tốt, nhờ vậy “…con vẫn tác ý buông và càng buông thì ghi nhận các pháp vận hành càng rõ ràng”. Tuy nhiên, đó là sự rõ ràng nhờ yếu tố định hơn là sự rõ ràng của yếu tố tuệ Vipassanà.
Vấn đề then chốt ở chỗ là thái độ có chủ ý buông 3 ái hay buông thái độ có chủ ý ấy để tánh biết thấy rõ bản chất sinh diệt trung thực của 3 ái một cách tự nhiên. Điều này rất vi tế, rất khó thấy ra. Lúc đầu thấy ái liền khởi ý buông ái đó, nhưng về sau thấy ái mà tánh thấy không phản ứng, không can thiệp, không phê phán, không kiểm duyệt, không tạo tác… thì ái tự buông chứ không cần có chủ ý buông. Như vậy là buông thái độ hữu vi hữu ngã trong thấy biết thì thấy biết rỗng lặng trong sáng (Tri kiến thanh tịnh: không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô vi, vô ngã…). Nhưng ngay khi nói buông thái độ hữu vi hữu ngã thì vẫn còn hữu vi hữu ngã vi tế. Cũng không sao, biết vậy là được, rồi có một lúc nào đó đầy đủ nhân duyên, cái ngã bỗng nhiên tự buông và ngay đó toàn bộ thực tánh pháp hiện ra trong tánh biết rỗng lặng trong sáng tự nhiên. Lúc đó mới thật sự gọi là tinh tấn – chánh niệm – tỉnh giác hay sáng suốt – định tĩnh – trong lành.
Vì vậy, có 4 loại tỉnh giác:
1) Lợi ích tỉnh giác (Satthaka sampajaññā): Vì lợi ích mà tỉnh giác, tức tỉnh giác có mục đích diệt trừ các ái chẳng hạn.
2) Thích ứng tỉnh giác (Sappāya sampajaññā): Tùy đối tượng đến đi mà tỉnh giác. Ví dụ, các ái khởi sinh và hoại diệt khi có sự tương giao căn-trần-thức liền tỉnh giác.
3) Đương xứ tỉnh giác (Gocara sạmpajaññā): Bất cứ ở đâu và lúc nào cũng tỉnh giác. Dù có hay không có đối tượng trong giới hạn tương giao căn-trần-thức vẫn tỉnh giác.
4) Bất muội tỉnh giác (Asammoha sampajaññā): Tánh biết rỗng lặng trong sáng, hay tâm sáng suốt, định tĩnh, trong lành tự nhiên không bị phiền não che lấp nên luôn tỉnh giác không mê muội.
Nói vậy để con thấy ra con đang chánh niệm tỉnh giác ở mức độ nào thôi, còn con vẫn cứ đang như thế nào thì biết như vậy rồi sẽ tự khám phá và tự động điều chỉnh nhận thức và hành xử đúng pháp. Con nhớ tóm tắt nguyên tắc của thiền Vipassanà là:
1) Chỉ buông thái độ hữu vi hữu ngã đối với các ái thì các ái tự buông chứ không chủ động buông các ái.
2) Tánh biết tự biết pháp và pháp tự vận hành chứ không có cái ta tu tập, phàn ứng, can thiệp, phê phán, kiểm duyệt, tạo tác… nên mới gọi là không, vô tướng, vô nguyện, vô hành, vô tác, vô vi…