Kính bạch Hòa Thượng! Phần đông Phật tử hiện nay tu theo pháp môn Tịnh Độ. Để hướng dẫn họ, Chùa chúng con cũng tổ chức đạo tràng niệm Phật; nhưng xét về trình độ Phật học của con thì quá kém không biết đâu là tướng dụng của pháp môn này, nên hôm nay con mạo muội kính xin Hòa Thượng chỉ dạy để con có cái nhìn tốt hiểu biết tốt, sự tu tập và sự
hướng dẫn họ cho tốt, để tránh tình trạng như câu kinh: “Kẻ mù dắt đứa đui theo dõi, sa lửa hầm còn hỏi chi chi”.
Con xin tri ân Hòa Thượng!
Nếu tu tập đúng mục đích ý nghĩa của niệm Phật thì đó là pháp môn giản dị và phổ thông hợp cho căn cơ trình độ đức tin của đa số quần chúng. Nhưng nếu hướng dẫn sai và hành sai thì rất dễ lạc vào mê tín và hoàn toàn phản tác dụng. Con nên vào Thư Viện trang web này đọc cuốn “Thiền Phật Giáo: Nguyên Thủy và Phát Triển” nhất là chương nói về niệm Phật, trong đó có so sánh pháp môn niệm Phật theo Phật Giáo Nguyên Thủy và pháp môn niệm Phật phát triển vào đầu thế kỷ Dương lịch (khoảng 600 năm sau đức Phật Niết-bàn) của Tịnh Độ Tông để thấy ra mục đích ý nghĩa và cách hành trì của pháp môn này. Trong Phật Giáo Nguyên Thủy hiện nay, hành giả vẫn thường kết hợp niệm Phật với thiền Vipassanà, nhất là giai đoạn đầu để chuẩn bị cho tâm được ổn định và trong sáng hơn trước khi đi sâu vào Minh Sát Tuệ. Cách kết hợp như sau:
1. Niệm Phật cho đến khi thấy tâm nhất niệm thanh tịnh, không còn bị thất niệm, tạp niệm, hay vọng niệm xen vào nữa.
2. Khi tâm đã thanh tịnh thì tự nhiên buông câu niệm Phật chỉ lặng lẽ cảm nhận trạng thái thanh tịnh trong sáng thôi.
3. Để tâm rỗng lặng trong sáng tự soi thấy rõ ràng mọi trạng thái hoạt động của thân, thọ, tâm, pháp, trong và ngoài.
4. Chứng nghiệm được thực tánh chân đế và bản chất thật của các pháp (16 tuệ chứng).
Người niệm Phật không đúng sẽ bị vướng vào câu niệm Phật, còn người niệm Phật đúng thì tự động trải qua những trình tự trên theo đúng hướng “Xả ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, chánh trí, giác ngộ, Niết-bàn” như đức Phật đã dạy.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con thành tâm kính đảnh lễ Thầy!
Kính bạch Thầy!
Con là Tăng sĩ Bắc Tông, sau khi tiếp xúc những lời dạy của Thầy con suy ngẫm nhiều và có sự thay đổi. Con ít cầu nguyện, và không trì chú như trước kia. Con không tọa thiền nhiều, chỉ tĩnh tọa khi nào thấy tiện. Con không đặt ra những mục tiêu hay tiêu chuẩn nào cho mình, chỉ nỗ lực làm tốt công việc đang làm… Như vậy con đúng không bạch Thầy?
Chung quanh con nhiều người tu Tịnh Độ mong được vãng sanh Cực Lạc. Các vị ấy rất hiền và con thật sự kính trọng. Những băng dĩa, những câu chuyện mầu nhiệm của hiện tượng vãng sanh thường được bàn đến trong câu chuyện ở đây. Con thấy mình dường như lạ với những gì mình đang theo. Con tin Phật lắm nhưng sao con không thiết tha cầu sanh Tịnh Độ. Tự nhiên như vậy, ngay cả khi con khuyên người khác tin Cực Lạc! Con tự mâu thuẫn rất nhiều. Con kính mong Thầy dạy cho con biết con nên làm sao. Con thành tâm tri ân Thầy!
1) Con thực hành như vậy là đã có tiến bộ. Khi đã vào được chỗ cốt lõi của Phật Pháp thì sống càng giản dị càng uyên thâm, đến nỗi Phật dạy thân, thọ, tâm, pháp như thế nào thì thấy như vậy, đừng để cái ta tham ưu xen vào. Do đó thiền cũng nói “Bình thường tâm thị đạo”, “Xúc mục vô phi thị đạo”, “Đương xứ tức chân”… Con sống như thế là rất tốt.
2) Thân Loan, vị Tổ của Chân Tông Nhật Bản, trong cuốn Thán Dị Sao nói rằng dù niệm Phật mà đọa vào địa ngục ngài vẫn niệm vì ngài tin rằng niệm Phật có thể vào được bản tâm thanh tịnh, mà Tịnh Độ Tông Trung Hoa gọi là vãng sanh Tịnh Độ. Trong Kinh Tạng Pāli đức Phật cũng dạy khi bản tâm thanh tịnh thì thấy các pháp đều thanh tịnh. Một khi đã niệm Phật đến chỗ nhất niệm thanh tịnh thì dù ở cực lạc hay cực khổ gì vẫn “Tùy kỳ tâm tịnh tức Phật Độ tịnh”. Do đó tâm đã thanh tịnh thì cực lạc hay cực khổ gì cũng thanh tịnh vô ngại.
3) Theo Thiền Vipassanā và Thiền Tông thì từ nhất niệm phải đến vô niệm mới thật sự chánh niệm. Do đó Tịnh Độ Tông nói niệm Phật đến nhất niệm phải sau khi chết mới được vãng sanh. Thiền Vipassanā và Thiền Tông giải thích điều này là: Phải chết đi cái ta nhất niệm thì mới vô niệm (vãng sanh) được. Và có vô niệm (vãng sanh) mới vào được cõi Tịnh Độ (= Chánh niệm: trở về với tánh thanh tịnh của thực tái hiện tiền). Và ở đó được đức Phật A-di–đà tiếp dẫn (= được sự tĩnh giác của tánh biết soi sáng). Vậy con đang tu tập chánh niệm tỉnh giác là mục đích tối hậu của niệm Phật thì còn nghi ngại gì nữa?
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch thầy, ngày xưa, nhiều vị Cao Tăng Thiền Đức khuyên nên thiền tịnh song tu, vậy Phật tử ngày nay có nên y theo lời khuyên đó mà tu hay tông phái nào tu theo tông phái đó? Kính xin thầy từ bi chỉ dẫn.
Phật Giáo Phát Triển chia ra Thiền Tông và Tịnh Độ Tông riêng nên mới có tình trạng đã theo tông phái nào thì phải tuân thủ theo yếu chỉ của tông phái đó. Thực ra trong Phật Giáo Nguyên Thủy, hành thiền hay niệm Phật đều là những pháp thể hiện Giới Định Tuệ, Bát Chánh Đạo v.v… nên Phật tử có quyền chọn lựa pháp nào thích hợp với căn cơ trình độ của mình, cũng có thể kết hợp nhiều pháp vào việc tu hành. Ví dụ, người hành thiền tuệ có thể bổ sung thêm niệm Phật, niệm tâm từ, niệm bất tịnh, niệm sự chết v.v…
Tinh chuyên một tông môn cũng tốt nhưng cũng dễ bị dính mắc vào một phương tiện, nên đôi khi còn đả phá phương tiện khác, sinh ra tình trạng chia rẻ tông môn hệ phái. Ngày nay nếu Phật tử thấy thích hợp với pháp môn phương tiện nào thì cứ hành theo, sau đó nếu thấy không khai mở được gì mà còn bị trói buộc thêm thì thay đổi pháp môn phương tiện khác. Nếu thấy 2 pháp môn đều hay thì cứ hành cả hai.
Tốt hơn hết là nên học hỏi để nắm vững cốt lõi của Giáo Pháp trước rồi mới thực hành thì mới khám phá được chân lý một cách toàn diện, nếu không chỉ như người mù rờ voi, dù có rờ được gì bằng cả hai tay thì cũng chỉ là kinh nghiệm cục bộ. Cũng vậy, nếu không thấy được cốt lõi của Phật Pháp thì dù có thiền tịnh song tu cũng chỉ bắt cá hai tay mà thôi.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch thầy, con là Phật tử tu theo pháp môn niệm Phật (niệm Ân đức Thanh Tịnh, Sáng Suốt của chư Phật), nhưng những điều con thấy đều tương thông với thiền. Pháp môn nào Phật dạy cũng đều đưa tới giải thoát. Bữa đó con đang nấu cơm, bất chợt thấy hễ mình còn khởi lên ý niệm “Ta thấy”, “Ta đang làm” là còn xa rời với đạo. Từ bữa đó làm việc gì với tâm không bị ngoại duyên chi phối thì con an nhiên tự tại, vui buồn mừng giận không còn chi phối nữa. Kính mong thầy chỉ dẫn cho con. Con xin chân thành cám ơn.
Con niệm Phật như vậy là rất tốt. Pháp môn nào đức Phật dạy nếu tu đúng cách đúng hướng đều đưa đến giác ngộ giải thoát. Thiền mục đích là thấy thực tánh chân đế, hay gọi là kiến tánh, vì vậy khi thực sự chánh niệm tỉnh giác thì không còn ý niệm “Ta thấy”, “Ta đang làm” nữa. Chánh niệm thì không còn ngoại duyên chi phối, Tỉnh giác thì rỗng lặng trong sáng nên không bị vui buồn mừmg giận chi phối nữa. Mục đích của niệm Phật cũng để đưa đến chánh niệm tỉnh giác trong vô niệm (không, vô tướng, vô tác, vô nguyện), cho nên mới an nhiên tự tại.
Nếu niệm Phật mà để tham cầu chứ không thanh tịnh sáng suốt là tại niệm sai cách, sai hướng. Thiền mà vọng cầu sở đắc, lấy cái này bỏ cái kia, lăng xăng tạo tác để trở thành là do thiền không đúng. Vậy cần chỉ ra chỗ sai chỗ đúng để chia sẻ và giúp nhau thấy ra sự thật trên đường tu học là điều rất cần thiết, đó chính là kiến hòa đồng giải vậy. Cám ơn con đã chia sẻ kinh nghiệm tu tập để giúp thức tỉnh những bạn đạo đang hành sai pháp môn của mình.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Bạch Thầy, lâu nay con tu theo pháp môn Tịnh Độ chuyên niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật nhưng con thấy sao thân tâm không an lạc mấy, nhiều khi còn cảm thấy tức ngực, khó thở. Con nghĩ là con không thích hợp với pháp này. Con nghe nói pháp tu thiền Minh Sát tuệ là pháp tu đặc biệt do Đức Phật chỉ dạy, con muốn chuyển sang tu theo pháp này. Vậy con phải bắt đầu như thế nào để không bị tu sai pháp. Kính mong Sư chỉ dạy cho con.
Niệm Phật nguyên là một trong 10 pháp môn tùy niệm gọi là “Buddha anussati” trong thiền định, có mục đích hỗ trợ cho tâm được NHẤT NIỆM. Tâm thường bị thất niệm, tạp niệm và vọng niệm nên phải dùng nhất niệm để chế ngự được ba loạn niệm kể trên. Cao nhất của nhất niệm là cận định (upacara) nên chưa hoàn toàn chánh định mà cũng chưa hoàn toàn chánh niệm. Từ anussati có nghĩa là niệm niệm kế tục nên gọi là tùy niệm, anu cũng có nghĩa là phó, ví dụ như anulekha là phó thư ký, vì vậy anussati có thể dịch là … “phó niệm”, vì chưa phải là chánh niệm. Từ tùy niệm đến chánh niệm phải qua vô niệm, nghĩa là buông cái ta nhất niệm để cho tâm không còn niệm nào nữa thì chánh niệm mới xuất hiện trọn vẹn trên thực tại tánh, không còn một niệm nào ngăn che nữa.
Vậy nếu con niệm Phật đúng thì bước chuyển từ nhất niệm qua vô niệm là tất yếu để đến chánh niệm, đó là con bắt đầu bước vào thiền Minh Sát Tuệ Vipassanà. Thiền này lấy TINH TẤN, CHÁNH NIỆM, TỈNH GIÁC, tức Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Kiến trong Bát Chánh Đạo làm yếu tố tu tập và lấy thực tại THÂN – THỌ – TÂM – PHÁP làm đối tượng tu tập. Khi Tinh Tấn, Chánh Niệm, Tỉnh Giác đúng thì thực tánh pháp xuất hiện, không còn ảo tưởng về ngã và pháp nữa là con giác ngộ được Chân Đế. Thầy chỉ trình bày đại khái vậy thôi, nếu con muốn tu tập thiền Minh Sát thì mời đến Chùa Tổ Đình Bửu Long, Quận 9, thầy sẽ mở khóa thiền bắt đầu vào chủ nhật 21/11/2010 từ 2g đến 4g chiều. Khóa thiền sẽ kéo dài 7 buổi chiều chủ nhật.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Com xin kính chào chư Tăng-Ni. Con xin được hỏi: Trong Phật giáo có nhiều pháp môn để tu. Theo con được biết người tu theo pháp môn Tịnh độ sau khi chết sẽ có Phật A-di-đà rước sang Tây Phương Cực Lạc, vậy còn những người tu theo pháp môn khác sẽ được Phật nào rước ạ?
Đạo hữu có thể đọc trong trang Web này cuốn “Thiền Phật Giáo: Nguyên Thủy và Phát Triển” ở mục Thư viện,trong đó có trình bày về pháp môn niệm Phật của Tịnh Độ Tông và niệm Phật theo Phật giáo Nguyên Thủy để biết rõ chi tiết hơn.
Niệm Phật nói chung là để tâm được nhất niệm, nhờ nhất niệm tâm không tán loạn theo tạp niệm vọng thức, không tạp vọng thì tâm được trong sáng, trí tuệ chiếu soi, thấy rõ thực tánh của tất cả các pháp, không còn bị mê muội đắm chìm trong phiền não khổ đau, luân hồi sinh tử do bàn ngã vô minh tạo tác. Đó là giác. Giác là Phật, nhờ giác ngộ (Phật) mà giải thoát (độ) nên gọi là Phật độ.
Phật A-di-đà là biểu tượng cho tánh giác thanh tịnh, chính nhờ niệm Phật mà khai mở được tánh giác thanh tịnh bị che lấp bởi tạp niệm vọng thức, mà giải thoát ra khỏi luân hồi sinh tử. Như vậy, nói là Phật Di-đà độ, thực ra là tánh giác thanh tịnh tự độ mà thôi. Do đó có câu: “Di-đà là tánh giác, tự tâm là cõi tịnh” (Tự tánh Di-đà duy tâm tịnh độ). Tóm lại dù niệm Phật hay không niệm Phật theo pháp môn nào, thì cũng phải nhờ tánh giác thanh tịnh nơi chính mình mới có thể giác ngộ giải thoát. Tông môn dù sai biệt vẫn có chung một cốt lõi giác ngộ giải thoát này.