Kinh Bach Su,
Trong coi ta ba nay da may ngan nam roi ma chi co 1 vi Phat Thich Ca Mau Ni, the sao trong kinh dien thuong day rang: “Co hang ha sa so Phat, co nhieu quoc do Phat nhu so cat song Hang”.
Kinh mong Su giai thich cho con hieu ro hon y nghia the nao?
Con Thanh kinh tri on Su.
Con lo giải thích chuyện Phật Thánh làm gì, tốt hơn nên dành thời gian chánh niệm tỉnh giác với thực tại thân tâm để giác ngộ mình trước, lúc đó tự mình sẽ hiểu thôi.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy, trước tiên con xin cảm ơn thầy và kính chúc thầy được mạnh khỏe. Kính nhờ thầy cho con biết có phải: Trải nghiệm bằng tâm không suy nghĩ, phân tích, so đo, không định danh, không xác định nhân thân của mình người vật cỏ cây… Tức thì đốn ngộ có phải không?
Chưa hẳn là thế. Tâm vô ký cũng không suy nghĩ, phân tích, so đo, không định danh, không xác định nhân thân gì cả nhưng vẫn si mê lầm lạc. Vì vậy cần phải có yếu tố quan trọng là trí tuệ thấy pháp tánh chân đế mới là “đốn ngộ”.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con kính bạch Thầy,
– Người đã Giác Ngộ (Kiến Tánh) có còn ái, tham-sân-si không?
– Lo âu, sợ hãi có phải là biểu hiện của ngu si, vô minh, ái dục không?
– 8 loại khổ (sanh, già, bệnh, chết, cầu bất đắc, oắn tắng hội, ái biệt ly, ngũ ấm xí thạnh) có thuộc trong 3 khổ (khổ khổ, hoại khổ, hành khổ) không?
Một người đã thấy pháp thì không còn chấp vào khái niệm tục đế, tức là không còn bị ràng buộc trong hình thức bên ngoài và ngôn ngữ văn tự – nói chung là “danh tướng” – nữa.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Xin thầy chỉ bày cho con một phương pháp tu, vi con không biết phải bắt đầu từ đâu. Con tha thiết chí thành cầu đạo giải thoát – một con đường thẳng có thể đi đến hết cả cuộc đời.
Con đã cảm nhận thế nào là khổ, thời gian không ngừng trôi, mọi thứ con yêu thích đã không còn, vì chúng làm thay đổi tất cả. Biển pháp mênh mông, cuộc đời vô thường, không có pháp môn nương tựa hành trì, e rằng con sẽ bị mọi thứ làm đau khổ.
Con xin thầy có thể khai mở 1 pháp môn tu cho con để con khỏi uổng kiếp người – một pháp môn mà con có thể thoát khỏi sự ràng buộc trong cuộc sống thực tại, ngay tại đó cũng là pháp tu giải thoát.
Mong thầy khai mở 1 con đường sáng cho con đi.
Con đường đó chinh là bản thân con, trở về với thực tại thân tâm mình mà thấy, đó là con đường duy nhất diệt tận khổ ưu, thành tựu chánh trí, giác ngộ Niết-bàn. Nếu con không hiểu thì nên vào mục Pháp Thoại nghe giảng con sẽ thấy ra đường đi. Đường đi mỗi người sẵn có, chỉ tại không thấy ra mà thôi.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch thầy xin cho con biết Đức Phật đã thấy ra sự thật gì mà ngài đã giác ngộ?
Sự Thật mà Đức Phật giác ngộ chính là Tứ Thánh Đế (Bốn Sự Thật).
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Nam Mô A Di Đà Phật! con thành kính đảnh lễ Thầy. Con có môt vài điều thắc mắc xin Thầy khai thị, con cám ơn Thầy nhiều ạ.
Theo con được biết thời Phật đã có chữ viết và phương tiện công cụ ghi chép. Đạo Bà La Môn có trước đạo Phật cũng đã ghi chép kinh điển của họ. Vậy tại sao Phật Tổ lại không cho biên soạn kinh điển để truyền lại cho đời sau những lời dạy nguyên thủy và chân thực nhất của Ngài. Đành rằng ở một khía cạnh nào đó ngôn từ, sách vở có thể là vật cản cho việc thực hành nhưng không thể phủ nhận lợi ích của sách vở. Số người không biết Phật Môn khá nhiều nhưng đáng lo sợ hơn la ngay cả những Phật tử cũng không hiểu biết đúng đắn được Ngã Phật dù đã quy y, học đạo. Lý do của điều này một phần vì kinh điển khá rối rắm, khó hiểu, thậm chí có những đoạn những kinh đầy màu sắc mê tín, thần quyền không thể do Phật thuyết hay Tổ Sư nói được mà do người đời sau tự sáng tạo rồi gán cho Phật. Phật là bậc Toàn Giác, Người chắc chắn phải biết trước được ngày hôm nay nhưng sao lại không can thiệp. Con nghĩ rằng với Trí tuệ và thần thông của Phật và các vị Tổ Sư thì biên soạn và duy trì kinh điển hàng bao nhiêu ngàn năm đi chăng nữa không phải là điều khó khăn.
Đức Phật nói mà dường như không nói, ngôn ngữ chỉ là một phần rất bé nhỏ và hầu như không phải là chính yếu khi đức Phật khai thị Sự Thật. Những nhân tố chính yếu có tác dụng mạnh mẽ khi Ngài chỉ dạy là tâm thái, cử chỉ, nụ cười, ánh mắt, vẻ tự nhiên, năng lượng, trí tuệ, từ bi v.v… biểu hiện nơi Ngài ảnh hưởng trực tiếp đến người cầu đạo đúng với căn cơ, tình huống, không gian, thời gian và thái độ nhận thức, niềm tin, sự chú tâm trọn vẹn trong sáng của người ấy ngay lúc đó, còn ngôn ngữ chỉ là thứ yếu, đôi khi hoàn toàn không cần thiết, vì sự im lặng của đức Phật có tác dụng khai tâm hơn nhiều so với những gì Ngài nói.
Nếu như ngôn ngữ là trọng yếu đến thế thì khi đức Phật đã hoàn toàn giác ngộ Ngài chỉ cần bỏ ra một hai năm tìm một chỗ thanh vắng ngồi viết ra kinh điển rồi dùng thần thông biến ra vô số bộ kinh để phân phát cho chư thiên và nhân loại, đồng thời biến nó thành bất hoại để truyền lại cho muôn đời sau, rồi nhập Niết-bàn cho khoẻ, tội gì phải đi khai thị từng người và cần gì đệ tử phải ghi chép làm chi cho mệt. Cho dù làm thế Ngài vẫn không thể truyền đạt được toàn bộ chân lý Ngài đã giác ngộ qua ngôn từ mà chủ yếu là người được khai thị phải chứng ngộ chân lý ấy ngay nơi chính mình chứ chẳng có điều gì đến với anh ta qua ngôn từ cả.
Người thợ mộc đã rất đúng khi nói với ông vua đang nghiền ngẫm kinh điển rằng bệ hạ chỉ đang nhai lại cặn bã của Thánh nhân thôi. Chính vì thế mà sau khi đức Phật nhập diệt, lời dạy của Ngài đã được ghi lại một cách tóm lược qua trí nhớ, tất nhiên cũng có lợi nhưng đã tạo ra một hiệu ứng nguy hại khôn lường đó là sự phân phái do người sau hiểu nghĩa kinh ít nhiều sai khác, và càng về sau sự phát triển qua chú giải, luận thuyết, cùng các bộ kinh nguỵ tạo đã dần dần biến Đạo Phật thành Tôn giáo, Triết học và Tín ngưỡng. Như vậy không phải ngôn ngữ kinh điển chỉ còn là cặn bã của Thánh nhân đó sao? Chân lý luôn viên mãn nơi thực tại hiện tiền, vì không ai thấy nên Phật mới chỉ ra, ngay đó ai thấy được là xong, quên lời mới đúng.
Khi đạo sĩ Sāriputta hỏi ngài Assaji: “Thầy của ngài dạy gì?”, sao lúc đó ngài Assaji không bảo Sāriputta ngồi xuống nghe ngài đọc lại bài kinh Chuyển Pháp Luân mà chỉ nói một câu quá đơn giản: “Các pháp sinh ra từ một nhân”…? Vì ngài không cần lặp lại ngôn từ Phật nói, mà liền chỉ thẳng vào một sự thật, đó là tình trạng luôn sinh tâm tìm cầu sở tri sở đắc của Sāriputta, khiến Sāriputta bừng tỉnh. Sự bừng tỉnh kỳ diệu ấy đưa Sāriputta về với thực tánh chân đế (paramattha sacca) ngay nơi thực tại hiện tiền (sandiṭṭhiko dhammo).
Chân lý ở khắp nơi
Kiếm tìm chi ngôn ngữ
Khi tâm thật thảnh thơi
Chính là Dòng Bất Tử.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy, thầy cho con hỏi vấn đề này. Con được biết một số trường hợp kỳ lạ về sự giác ngộ. Có bà bác sĩ nọ rất nổi tiếng nhưng không may bị bệnh về não trái, và trong thời gian bệnh đó, bà ta đã bỏ qua hết thảy ý niệm vật chất, hòa mình vào năng lượng chung của vũ trụ một cách hạnh phúc, nhẹ nhàng. Trường hợp này có thể cho rằng bà ta đã cảm nhận được sức mạnh chung của năng lượng vạn vật, nhưng còn một trường hợp khác nữa mà con hoài nghi. Đó là trường hợp của những người bị trầm cảm tột độ, bỗng dưng họ vứt bỏ tất cả thế giới hữu hình, cảm thấy đầy an lạc, yêu thương và hòa hợp. Họ trở lại làm bậc thầy khuyên nhủ người khác sống thật yêu thương và an bình. Thầy có thể cho con biết về sự giác ngộ này không? Có phải vì họ đã trả hết nghiệp nên an nhiên hạnh phúc? Điều này có phải họ đã ở trong trạng thái của Tứ thiền định không thưa thầy? Con xin lỗi vì câu hỏi quá dài, con xin cảm ơn thầy.
Tại sao phải mất công lý giải sự giác ngộ của người khác? Quan trọng là con đang giác ngộ thế nào đây? Thời đức Phật mỗi vị Thánh đều giác ngộ trong mỗi tình huống khác nhau thì làm sao lý giải đây?
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kinh Thua Thay.
Neu ai nhin thay tat ca moi phap den di trong cuoc song deu la chat lieu can thiet cho su giac ngo thi cuoc song nguoi do se tot dep, phong phu, va tu bi hon… dung khong thua Thay?