Thầy kính!
Sao ngày xưa thời ĐỨC PHẬT tại thế, ngài độ ngay được cho cả những người trong cơn bạo bệnh, cùng cực, khốn khổ?
Nhưng sao thời nay một người tu tập giác ngộ thì cần làm phước, tu phước và phước là trợ duyên cho con đường giác ngộ vậy thưa thầy?
Hồi trước đức Phật chỉ thẳng vào sự thật đang diễn ra nơi những người đó, đúng vào lúc sự kiện hiển bày rõ ràng nhất đủ để người đó thấy ra. Còn bây giờ cứ đem Kinh Luận ra áp đặt mà thực chất người nói còn chưa thực chứng sự thật làm sao người nghe chứng ngộ được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, con hay nghe giác ngộ giải thoát. Đọc nhiều sách nhưng con rất mơ hồ. Xin Thầy có thể giúp con biết là Phật đã giác ngộ điều gì và giải thoát khỏi cái gì? Con cảm ơn Thầy nhiều lắm. Con chúc thầy nhiều sức khỏe để chúng con được nghe Pháp từ thầy.
Giác ngộ là thấy ra sự thật, giải thoát là không còn ảo tưởng về sự thật đó. Thí dụ thấy rõ (giác ngộ) tham sân si tạo ra đau khổ cho mình và người nên không tham sân si nữa (giải thoát).
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con xin đảnh lễ Thầy. Con chưa hiểu lắm về Chứng Ngộ trong kinh sách, mong thầy khai thị giúp con: Khi chứng ngộ thì sống hoài với cái chứng ngộ trong 24 giờ trong ngày và kéo dài đến lúc chết hay là chỉ thấy một khoảnh khắc lúc chứng ngộ, rồi sau đó trở lại bình thường như lúc chưa chứng ngộ. Con xin cảm ơn Thầy!
Chứng ngộ là thấy ra sự thật rốt ráo. Khi một người đã thấy ra sự thật thì không còn ảo tưởng về chính mình và cuộc sống nữa thôi, còn vị ấy vẫn sống bình thường.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thầy ơi, làm thế nào để con biết được mình đã ở trong hàng ngũ tứ thánh hay chưa?
Có những lúc con thấy tâm mềm mại như một trong tứ thánh, lại có những lúc con sẵn sàng cao giọng, sẵn sàng phẩn nộ với người ta, nhưng không phải giận quá mất khôn, mà là giận có kiểm soát. Nghe nói thế hơi buồn chứ con nghĩ là con chưa an trụ trong tứ thánh rồi.
Làm gì có tứ thánh mà an trụ! Chỉ có con đã thoát được bao nhiêu ảo tưởng thôi. Thầy cũng thấy có tứ thánh gọi là thánh a, b, c, d. Thoát được 30% ảo tưởng là thánh a, thoát 30,5% ảo tưởng là thánh b, 50% là thánh c, 100% là thánh d. Thoát hết thì không còn trói buộc thôi chứ trụ làm gì để tự trói buộc trở lại.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con kính đãnh lễ sư ông! Con mong sư ông chỉ bảo. Con đã trải qua quá nhiều tổn thương quá nhiều thử thách, đã rất nhiều rất nhiều người đi qua cuộc đời con rồi làm con khóc. Con bây giờ phải sống bám vào mẹ. Tiền không làm ra sống mặc cảm tự ti với bản thân nhục nhã khi nhớ về quá khứ bế tắc cho tương lai. Con không tu hành được gì cả. Con không biết là mình muốn gì? Con khóc con buông xuôi. Con phó mặc cho số phận. Con xin sư ông một lời khuyên con xin sư ông trả lời con!
Tri ân sư ông!
Một người biết rèn luyện cơ thể và tâm hồn cho tốt thì có thể không bệnh, nhưng lại khó mà giác ngộ vì đang củng cố một cái “Ta” lý tưởng. Ngược lại một người nhiều bệnh tật có thể nhờ thế mà mau giác ngộ, và giác ngộ xong bệnh tiếp, nhưng bây giờ anh ta không còn khổ nữa.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Dạ thưa Thầy !
Cho con xin phép hỏi?
1: Nếu một người muốn thành công trên con đường xuất gia thì phải như thế nào ạ?
2: Sự khác biệt giữa tại gia và xuất gia là như thế nào thưa Thầy?
3: Người tại gia có thể đạt được sự giác ngộ như người xuất gia không ạ?
Con mong Thầy cho lời khuyên
Thành kính tri ần Thầy!
1) Xuất gia muốn thành công cần tu đúng giới định tuệ của người xuất gia.
2) Tại gia lệ thuộc vào gia đình, xuất gia không lệ thuộc vào gia đình.
3) Tu tại gia vẫn giác ngộ được như người xuất gia.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con qua bờ bên kia 2 lần rồi, chỉ còn có tâm thấy, tâm nghe, tất cả các pháp trần đều tan biến (không còn nữa). Chơn tâm ấy là tuyệt đối, bất sanh, bất diệt, như 5 điều Thiền Sư Lục Tổ Huệ Năng nói, con chỉ còn muốn tự tại qua bờ bến kia, nhưng chưa tự tại được, Sư có thể cho con lời khuyên để con có thể tự tại qua bờ kia như các Thiền Sư đã bỏ xác thân này trong lúc đang sống vậy.
Muốn tự tại thì đừng cố làm như các thiền sư, họ là họ, con là con, chỉ cần trọn vẹn tỉnh thức như mình đang là thôi là tự tại ngay.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy!
Con là Phật tử tu theo Bắc tông đã được 10 năm. Các thầy bên Bắc tông thường nói tu theo nhị thừa vẫn còn kẹt do chán sinh tử cầu Niết-bàn và không có hạnh nguyện rộng lớn để độ chúng sinh mà chỉ muốn nhập Niết-bàn (các thầy thường ví dụ câu: Ta sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa để chứng minh các bậc A-la-hán không muốn tái sinh để độ chúng sinh như Bồ tát). Trước đây con tin tưởng hoàn toàn và không có nghi ngờ gì, luôn cho rằng pháp tu của mình là cao nhất, tốt nhất.
Tuy nhiên từ khi được đọc sách của Thầy, nghe pháp của Thầy và được gặp Thầy, con mới thấy hóa ra thực tế không phải như thế. Thầy đã tháo gỡ cho con rất nhiều vướng mắc trên đường tu mà trước giờ con cứ luẩn quẩn hoài không thoát ra được. Trước con luôn mong cầu được giác ngộ nên cố gắng giữ cho tâm vô niệm để mong chờ một ngày nào đó phát sinh trí tuệ. Nhưng tâm con lại không tĩnh lặng được nên sinh phiền não, tức là ngoài cái phiền não thông thường còn thêm một lớp phiền não nữa do muốn an mà chẳng được an. Rồi một lần khi đọc bài giảng của Thầy về Tứ Diệu Đế (trước đây con vẫn cho là pháp tiểu thừa), con chợt nhận ra khi đi biết mình đang đi, ngay đó biết luôn mà không cần đợi ngày mai ngày kia mới biết, sao lại còn mong cầu gì ở tương lai nữa. Con cũng hiểu ra thế nào là vô vi vô tác (trước con được nghe giảng vô là không, vi là làm, vô vi là không làm nên còn khá mơ hồ). Vô vi vô tác là làm gì thấy gì nghe gì thì ngay đó liền biết, không cần cố gắng dụng công gì, không phải tập trung cao độ mới biết mình đang nóng hay lạnh. Con thấy ra được những sai lầm trong việc tu của mình, vì mong cầu sự giác ngộ trong tương lai mà bỏ qua thực tại hiện tiền, tâm luôn phản kháng với những điều bất như ý (muốn định nhưng lại vọng tưởng, mặc dù giờ con vẫn còn cái tâm phản kháng do thói quen từ trước đã ăn sâu nên không thể ngày một ngày hai hết ngay được).
Con không hiểu tại sao trong Phật giáo các thầy lại phân biệt pháp môn cao và thấp. Theo con thì pháp vốn chẳng có cao hay thấp, pháp dựng lập qua ngôn ngữ, mà ngôn ngữ thì không phải cứu kính. Sự cao hay thấp có chăng là mức độ nhận ra sự thật ở mỗi người. Nếu một người ngay một câu nói đơn giản đời thường mà giác ngộ hoàn toàn thì đó là pháp “cao”, còn nếu người đó tu theo pháp môn “cao” mà vẫn không giác ngộ lại mắc kẹt trong đó thì “cao” lại thành “thấp”. Vì vậy quan trọng là người đó phù hợp với pháp môn nào, pháp môn nào giúp người đó nhận ra sự thật chứ không phải có pháp môn “cao” giúp người triệt ngộ, pháp môn “thấp” khiến người bị kẹt.
Thư con trình bày hơi dài, mong Thầy từ bi hoan hỷ chỉ cho con những điều con hiểu chưa đúng.
Con xin thành kính tri ân công đức Thầy!
Con đã thấy rất đúng. Đức Phật dạy mỗi người phải tự mình giác ngộ giải thoát – thấy ra Sự Thật Rốt Ráo để thoát khỏi mọi ảo tưởng tạo ra sinh tử luân hồi – thì mới có thể chỉ cho người khác biết cách tự giác ngộ giải thoát chính họ được. Sự Thật Rốt Ráo không của riêng ai, không có cao thấp, hơn thua, không do nỗ lực con người tạo tác mà thành.
Đó là Sự Thật mà trong Udāna đức Phật dạy là pháp “không sinh, không hữu, không tác, không thành” – tánh không vô vi vô ngã – và tu chính là thấy ra và thoát khỏi ảo tưởng “sinh-hữu-tác-thành” hữu vi hữu ngã của thế gian. Khi không còn bị che lấp bởi thế gian hư huyễn do “cái Ta ảo tưởng” tạo thành, thì ngay đó thế giới chân thật – Niết-bàn không sinh-hữu-tác-thành liền hiện ra.
Vậy “sanh đã tận… không còn trở lui trạng thái này nữa” chính là không còn trở lại thế gian hư huyễn dựng lên bởi “cái Ta ảo tưởng” mà đức Phật gọi là sinh-hữu-tác-thành nữa, vì đã thâý ra thế giới chân thật – Không sinh, không hữu, không tác, không thành, tức Niết-bàn không sinh không diệt. Đó cũng chính là “Sinh diệt ký diệt, tịch diệt hiện tiền” trong pháp tu “Phản Văn” rốt ráo nhất của Kinh điển Bắc Tông. Vậy chỉ do một số cá nhân chấp “cái ngã tông phái” mới sinh tâm phân biệt cao thấp mà thôi.