Thưa thầy, do ngày trước con tự học thiền và theo hướng dẫn của một quyển sách thì con chọn cách theo dõi hơi thở. Nhưng khi ngồi thiền con không an được, khi chú tâm vào hơi thở như vậy con nghe tiếng nói thầm: “hơi thở vào, hơi thở ra” làm con cảm thấy nhức đầu hơn. Nghe bài giảng trong khóa thiền của thầy thì con biết là đang kẹt vào hơi thở. Con xin thầy hoan hỷ chỉ con cách thoát ra. Con xin đa tạ thầy.
Đơn giản là con đừng theo dõi hơi thở nữa. Thiền không phải là trói buộc tâm vào một đối tượng nào, mà là không buộc tâm vào bất cứ điều gì cả (na kinci loke upadiyati), tâm không bị trói buộc đó là tâm thiền. Biết mình đang thở với tập trung vào hơi thở là hai thái độ hoàn toàn khác nhau. Mục đích của việc biết mình đang thở là để không quên mình trong thất niệm, tạp niệm hay vọng niệm, không để tâm lang thang hay lăng xăng tìm kiếm bên ngoài chứ không phải để buộc tâm vào hơi thở như cố gắng tập trung vì một tham vọng khác.
Tạm thời con quên việc theo dõi hơi thở đi mà nên biết mình đang đi, đứng, ngồi, nằm hay đang làm một động tác nào đó như nhai cơm, uống nước, rửa mặt v.v… như vậy con vẫn không quên mình trong thất niệm như khi con biết mình đang thở, không khác nhau gì cả. Đức Phật dạy tinh tấn chánh niệm tỉnh giác như vậy chính là để buông ra mọi dính mắc bên trong lẫn bên ngoài, để tâm ung dung tự tại chứ không phải để trói buộc tâm mình. Khi con thay đổi thái độ tu tập như vậy nếu có gì còn vướng mắc thì cứ hỏi ngay đừng để sai lầm lâu ngày thành thói quen quán tính.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Dạ thưa sư, khi con ngồi thiền một lúc có cảm giác như người con cứng lại lưng thẳng với trạng thái theo dõi hơi thở, cũng có lúc bụng con hóp vào một hồi lâu, trong tâm trí con lúc này trống rỗng, tâm lặng yên và con cảm thấy rất bình an và hạnh phúc. Vậy những trạng thái đó tự nó đến với mình?
Và bây giờ thì những lúc ngồi yên ở bất cứ chỗ nào con cũng có trạng thái cứng người và cũng theo dõi hơi thở, vậy những trạng thái đó có được gọi là thiền không?
Xem câu trả lời
Khi ngồi thiền, có cảm giác thân bất động với lưng thẳng và theo dõi hơi thở, tâm trí trống rỗng, lặng yên, bình an và hạnh phúc… đó là những trạng thái hỷ lạc ban đầu trong thiền định, như vậy cũng tốt. Nếu con thấy những trạng thái đó có ích cho đời sống thân tâm thì có thể tiếp tục, không có vấn đề gì cả. Tất nhiên những trạng thái đó tự đến khi thân tâm con ổn định. Tuy nhiên thiền định chỉ giúp con đạt được trạng thái an lạc, nên nếu con thấy an lạc rồi thích ngồi thiền thì vẫn bị dính mắc trong tham ái và tà kiến, không thể thấy được thực tánh pháp. Vì vậy con nên tu tập thêm thiền Vipassanā để thấy pháp tánh như thực thì mới không còn bị tham ái và tà kiến ràng buộc nữa.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch sư, con có biết một dòng thiền mới, đó là dòng thiền hiểu biết của thầy Minh Niệm. Qua tìm hiểu con nhận thấy dòng thiền này rất hay và có rất nhiều điểm tư tưởng của vị thầy Minh Niệm giống với sư và con muốn thực tập theo dòng thiền này. Nhưng trước hết con cần sự xác nhận dòng thiền này có phù hợp với chánh pháp hay không? Và với sự hiểu biết ít ỏi, con không đủ để đưa ra một nhận định chính xác về dòng thiền này. Mong sư cho con một lời nhận xét về dòng thiền hiểu biết này để con có thêm lòng tin và con đường thực tập không bị lạc lối. Xin tri ân sư!
http://www.thienhieubiet.org
Xem câu trả lời
Thành thật xin lỗi, sư không nhận định về pháp thiền của những vị khác, vì mỗi vị có cách vận dụng riêng và tất nhiên là sẽ phù hợp với căn cơ trình độ của một số hành giả nhất định nào đó. Nếu đạo hữu thấy thích hợp với mình thì cứ hành theo, rồi đạo hữu sẽ tự khám phá ra chỗ sở trường sở đoản của phương pháp ấy. Chúc đạo hữu tìm được pháp thiền phù hợp với mình.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa sư! Hơn hai năm nay con hành theo pháp xả từ lòng từ bi chỉ dạy của sư nhân chuyến sư sang Úc năm 2009. Đầu tiên là con thấy được hữu ái và phi hữu ái, liền ngay đó con áp dụng pháp xả, cũng như thường xuyên nghe các bài giảng của sư mãi cho đến nay.
Dần dà, con thấy trong cuộc sống của con sự tự do thênh thang nhiều hơn dính mắc. Những lúc bị dính mắc thì con dùng sự tự do để quan sát càng giúp con thấy rõ sự vô thường vô ngã và thấy rõ cái ngã là nguồn gốc của sự dính mắc. Con cảm nhận cái gì đó thênh thang nơi tâm mà con chưa diễn đạt được. Con có hỏi 3 câu trên mạng, mỗi lúc đọc lại là con thấm nhuần hơn lời dạy của sư, con hoan hỷ và biết tâm đang hoan hỷ.
Thực tại hiện tiền mới là đang đi trên lộ trình giải thoát. Nhờ hành pháp xả nên con ngồi thiền rất nhẹ nhàng sáng suốt nhưng con ít ngồi, chỉ khi nào đến nơi phải ngồi thì con cũng ngồi theo. Con thấy chánh niệm tỉnh giác lúc ngồi thiền cũng có lợi ích, nhưng lợi ích đó không thể sánh bằng thận trọng, chú tâm, quan sát hay sáng suốt, định tĩnh, trong lành trong đời sống hàng ngày. Đó mới là giải thoát nơi thực tại hiện tiền, mới là sự thật, chân lý. Nếu không giác ngộ từ đây thì không sao giác ngộ được.
Dạ thưa sư, điều con thấy như vậy có đúng không? Con kính xin sư chỉ dạy thêm cho con.
Con hiểu và hành như vậy là rất tốt. Đức Phật đã dạy trong kinh Kalama là cứ đem ra thực hành rồi mới biết pháp đó đúng hay sai. Rất tiếc nhiều người không thực hành được như vậy nên đành phải theo một phương pháp chế định và chỉ có được kinh nghiệm cục bộ, không thể thấy pháp thênh thang, vô ngã, không chỗ trụ, không nơi bán víu khi biết sống “Tùy duyên thuận Pháp vô ngã vị tha”. Chúc mừng con.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy! Hàng ngày con làm việc nhiều, về nhà lại lo toan chuyện gia đình, thời gian hành thiền của con rất ít. Nhưng mỗi ngày trong lúc làm việc hoặc mọi lúc mọi nơi con thường quan sát sự việc và thấy được tính chất vô thường của nó, tâm con bình lặng trở lại, không lăng xăng hay nóng giận khi có ngoại cảnh tác động. Do vậy tâm con có những lúc được an bình, trong sáng. Thưa thầy, đó có phải là thiền không? Xin thầy chỉ dạy. Kính chúc Thầy nhiều sức khỏe và vô lượng an lạc.
Xem câu trả lời
Thiền không nhất thiết phải ngồi. Thiền là thấy ra sự vận hành đúng như bản chất của pháp nơi thực tại thân tâm, nghĩa là ngay nơi mọi hoạt động hàng ngày của con. Thận trọng chú tâm quan sát trạng thái hoạt động của thân, của cảm giác, của tâm hành, của sự tương giao thân tâm và ngoại cảnh một cách tự nhiên được đức Phật gọi là thiền Tứ Niệm Xứ. Mỗi người vốn tự nhiên đã sẵn có sự thận trọng, sự chú tâm, sự quan sát. Nếu tâm không buông lung theo sự thúc dục của cái ta ảo tưởng thì ngay đó tâm liền có tinh tấn, chánh niệm và tỉnh giác, và lúc đó thận trọng chính là giới, chú tâm chính là định, quan sát chính là tuệ. Vì vậy, thiền là thái độ sống sáng suốt, định tĩnh, trong lành một cách tự nhiên. Con đang thiền rất đúng rồi đó. Chúc mừng con.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Xin thầy cho biết cách hành thiền sao cho có hiệu quả nhất? Cách ngồi, cách điều phục tâm để tâm định được sâu và thế nào là ngồi đúng cách và không đúng cách?
Cứ ngồi tự nhiên thoải mái, đừng quá gò ép thân trong một tư thế nhất định nào. Đừng cố gắng điều phục tâm, đừng bắt tâm phải định. Nếu biết buông cái ta lăng xăng tạo tác, nỗ lực muốn trở thành, muốn bỏ trạng thái này lấy trạng thái kia, trong ý đồ tham sân mê muội thì tâm sẽ tự định một cách dễ dàng. Chính ý chí của cái ta muốn đạt được trạng thái định lý tưởng đã làm cho cái tâm bất an mê muội. Giống như nước, cứ để yên nó đó đừng động đậy gì cả thì nó sẽ tự không chao động. Tại sao con muốn cái tâm định sâu mà lại cứ bắt nó phải như thế này thế kia theo ý mình? Có phải như vậy là định hay đang khuấy động nó lên?
Muốn định sâu hãy bắt đầu thận trọng chú tâm quan sát mọi việc hàng ngày một cách bình thường tự nhiên, chẳng bao lâu con thấy tâm con trầm tĩnh hơn trong mọi sự, rồi bỗng một hôm con thấy mọi xáo trộn bên ngoài không làm ảnh hưởng tới con nữa, đó là con đã định rất sâu, sâu hơn rất xa so với tứ thiền bát định mà ngoại đạo cố gắng luyện tập để đạt thành.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con rất thích thiền, xin thầy hướng dẫn cho con học thiền nên bắt đầu từ đâu? Đọc sách gì ạ?
Thiền không phải là một pháp môn tách rời Phật Pháp nên muốn biết rõ về thiền thì nên học hỏi Phật Pháp cho thông suốt. Nhiều người muốn đi tắt nên chỉ học theo phương pháp thiền của một trường phái nào đó mà không biết gì về Phật Pháp, như vậy thì lợi bất cập hại. Ví như một người thích ăn phở chỉ tìm phở mà ăn không biết gì về phép dưỡng sinh trong ăn uống (thực dưỡng). Thiền chỉ hữu ích khi biết sử dụng đúng nguyên lý, đúng mục đích và đúng mức độ, nếu không chỉ phí công vô ích mà còn đi xa chân lý hoặc tẩu hỏa nhập ma nữa là khác.
Trong trang web này có khá nhiều sách giới thiệu về thiền, con vào Thư Viện đọc Kinh, Sách, Văn, Thơ… để nâng cao trình độ Phật Pháp. Vừa rồi thầy mới giới thiệu một bạn đọc sách thầy viết để có gì muốn hỏi thì thầy dễ trả lời hơn. Nên đọc theo thứ tự những cuốn sách sau đây: 1) Con đường hạnh phúc, 2) Tuyển tập thư thầy, 3) Thực tại hiện tiền, 4) Sống trong thực tại, 5) Thiên Phật Giáo: Nguyên Thủy và Phát Triền, 6) Vi Tiếu. Con nhớ là khi chưa thông suốt, tuyệt đối không hành theo một phương pháp nào cả. Phương pháp chỉ đưa đến kinh nghiệm cục bộ chứ không mở toang cánh cửa tâm hồn để đón ánh sáng mặt trời chân lý.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy, đầu tiên con kính chúc Thầy sức khoẻ. Con xin phép được hỏi Thầy một câu hỏi. Con có nghe nhiều người nói về Thiền và Yoga. Có người nói rằng Yoga bao quát hơn Thiền, thiền có trong Yoga. Vậy nói rằng Yoga bao quát hơn thiền có đúng không ạ? Xin Thầy chỉ cho con để con có thể hiểu rõ thêm về sự khác nhau giữa thiền và yoga cũng như mục đích của nó.
Con xin cảm ơn Thầy.
Cái này thì khó nói lắm, bởi khi so sánh là đã rơi vào khái niệm rồi, mà khái niệm thuộc tục đế, do quy ước của cá nhân hay xã hội thế gian. Khái niệm quy ước là gán cho cái gì đó một ý nghĩa mà người ta “nghĩ” là thế, chứ chưa hẳn là thế! Cho nên có “tôi nghĩ thế” hay “tôi cho là thế”. Ở đời ai mà chả quy ước cho cái của mình là đúng là hay hơn của người khác. Nhưng luật tục đế muôn đời vẫn là: “Lý của kẻ mạnh luôn luôn thắng”, vì vậy trong thế gian này, nếu kẻ mạnh nói họ đúng hơn thì tốt nhất là đừng cãi lại, còn nếu kẻ yếu nói thì mỉm cười là đủ rồi, hơi đâu mà tranh chấp hơn thua, bởi giữa đời này hơn thua không nói lên được sự thật như nó đang là. Khổ một nỗi bản chất thật của pháp thì vượt ngoài khái niệm sai – đúng, hơn – thua, làm sao mà so sánh được đây?
Do vậy, đức Phật mới dạy trong kinh Kalama là hãy cứ thực nghiệm đi rồi biết thực sự nó ra sao chứ không nên “tin là…”, “cho là…”, “nghĩ là…” Vậy thực nghiệm để biết gì? Để biết rằng: Điều này là tạo tác của bản ngã tham sân si (Tập đế) đưa đến sầu-bi-khổ-ưu-não (Khổ đế), điều này là chánh trí không do bản ngã tham sân si tạo tác (Đạo đế) nên không còn sầu-bi-khổ-ưu-não (Diệt đế: Tịch tịnh Niết-bàn, Không, Vô tướng, vô tác, vô nguyện). Do đó pháp này thuộc chân đế, được các bậc Thánh goi là pháp VÔ TỶ, không thể nào so sánh được. Vậy con nói làm thế nào mà thầy so sánh với cái gì được đây?
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Đầu tiên con xin cám ơn Thầy về thư trả lời của Thầy.
Con xin có hai câu hỏi liên quan đến pháp hành kính mong Thầy rộng lòng từ bi giảng giải.
– Câu hỏi 1: Liên quan đến khái niệm về một vị thầy.
Trong hầu hết các tài liệu mà con đã đọc nói về thiền trong Phật giáo, kể cả Thiền tông, Mật tông, và thiền Nguyên thủy đều nhấn mạnh đến vai trò của một vị thầy, xem đó như là một điều kiện tiên quyết cho một người muốn dấn thân vào con đường tu thiền. Điều này đã gây không ít bối rối cho các hành giả cư sĩ tại gia, mặc dù họ có thể tiếp cận được các nguồn kinh sách thông qua mạng lưới thông tin hiện đại như ngày nay, hoặc được nghe các bài pháp thoại từ các giảng sư giàu kinh nghiệm (ví dụ như mạng Trung Tâm Hộ Tông chẳng hạn). Thật ra, trong giới cư sĩ cũng có người được trang bị một trình độ học vấn nhất định, giúp họ có được phương pháp luận khoa học khi tiếp cận vấn đề. Bản thân con mặc dù không trực tiếp được Thầy hướng dẫn nhưng thông qua mạng Internet con cũng tiếp thu được cơ bản nội dung pháp hành mà Thầy muốn truyền đạt. Các thắc mắc cũng đã được Thầy tận tình giúp đỡ tháo gỡ. Như vậy bản thân con xem như đã có một vị thầy chưa? Kính mong Thầy rộng lòng từ bi giảng giải. Việc kề cận một vị thầy còn mang một ý nghĩa tâm linh nào khác nữa không?
– Câu hỏi 2: Liên quan đến cái đau trong hành thiền.
Các thiền sư thường có lối giải thích và cách thức xử lý cơn đau trong lúc tọa thiền rất khác nhau. Bản thân con thì thích vận dụng theo lối tư duy “minh” và “vô minh” của Thầy để giải quyết vấn đề này. Cụ thể như vầy:
– Minh:
(1) Ngồi lâu thì phải đau (qui luật nguyên nhân – kết quả). Không có một tư thế hay oai nghi nào của con người mà không dẫn tới đau khổ, cho dù đó là một tư thế nằm thoải mái nhưng trước sau gì rồi cũng phải thay đổi huống hồ chi là ngồi lâu.
(2) Nhờ tư duy như trên nên tâm ít phản ứng hơn với cơn đau, điều này giúp cho thân tâm dễ kham nhẫn hơn.
(3) Cơn đau là một sự thật (chân đế) nó nằm trong bốn xứ (Thọ) để cho hành giả quán niệm nên không cần thiết phải dùng bất kỳ một phương pháp “Tự kỷ áp thị” nào để quên nó đi.
(4) Khi cơn đau tới hạn chịu đựng thì cứ tại đây, bây giờ thay đổi tư thế (trong thận trọng chú tâm quan sát) mà không một chút lo lắng vì sợ mất “định” .
(5) Thời gian từ lúc ngồi cho tới lúc đau là bao lâu không trọng, vì cơ địa mỗi ngưới khác nhau, ngay cả trong một con người do bị chi phối bởi luật vô thường nên thời gian dẫn tới cơn đau mỗi lúc mỗi nơi cũng khác nhau. Việc ngồi rất lâu mới thấy đau chẳng nói lên một thành tựu nào về giải thoát, mà đó chẳng qua là sự thích nghi của cơ thể theo cơ chế phản xạ có điều kiện.
(6) Con rất thấm thía câu nói của Thầy “Đừng biến hành thiền thành hành khổ”
(7) Đau đớn và an lạc đều là pháp nên tâm quan sát phải bình đẳng. Điều này giúp cho hành giả tiến gần hơn với tâm buông bỏ, xả ly.
– Vô minh:
(1) Đẩy cao cái ngưỡng chịu đựng cơn đau rồi xem đó như một thành tựu thì đó chẳng qua là biểu hiện của tự ngã.
(2) Ở trình độ thấp kém này mà muốn thấy được sự sanh diệt trong từng sát-na của cơn đau như có thiền sư từng giải thích thì vô minh.
(3) Khi tâm quan sát không còn rỗng lặng trong sáng mà cứ muốn tiếp tục quan sát cơn đau trước sau gì cũng dẫn tới tham sân.
Con hiểu như vậy thưa thầy có đúng không? Kính mong Thầy rộng lòng từ bi giảng giải. Con xin cám ơn Thầy.
1) Ngày xưa chưa có phương tiện truyền thông nào khác ngoài phải đi, nhiều khi rất xa, để tìm thầy học Đạo, hoặc ít nhất cũng đi hành cước để tham vấn xem sở tu sở chứng của mình đã thuận Pháp chưa. Ngày nay vai trò vị thầy chính là những nguồn thông tin giúp mình học Đạo, như kinh điển, pháp thoại audio, video v.v… Và để kiểm tra sở tu sở chứng của mình thì có thể gặp thầy qua điện thoại, internet có gắn camera là thầy trò có thể đối diện trình thiền hỏi Pháp thoải mái. Vậy không tiện hơn sao? Tin, học và hành theo một vị thầy có thể sai, lại phải đi tìm vị khác xa xôi, chi bằng cứ nghiên cứu học hỏi cho sâu rộng rồi khi đã có đủ trình độ nhận thức mới thấy vị thầy nào hay cứ đến tham vấn. Quan trọng là khai mở, giác ngộ, chứ không phải là hành theo vị thầy nào. Các vị Phật Độc Giác không học ai cũng vẫn tự mình giác ngộ thì có sao đâu. Tất nhiên vai trò vị thầy theo nghĩa rộng, hoặc thiện bằng hữu, thiện trí thức là những sự hỗ trợ rất cần thiết trên đường học Đạo. Nhưng cuối cùng vô sư trí vẫn là vị thầy tối hậu của mỗi người. Đức Phật đã xác định là sau khi Như Lai viên tịch Tứ Chúng nên nương tựa vào Pháp chứ không nên nương tựa vào vị thầy nào. Pháp (thực tánh) sẵn có nơi mỗi người, hãy quay lại mà thấy (Ehipassiko), không phải tìm đâu xa, không do vị thầy nào ban tặng. Cho nên Đức Phật mới dạy “Tự mình là nơi nương nhờ của chính mình, không ai khác là nơi nương nhờ được” (Attàhi attano nàtho, ko hi nàtho parosiyà).
2) Những điều anh nhận thức trong câu hỏi 2 đều đúng, nếu như đó không phải phát xuất lý luận thuần lý trí mà từ thấy biết qua trải nghiệm thật sự trên thực kiện. Chúc mừng anh.