Câu hỏi:
Thưa thầy, mong thầy chỉ cho con biết tại sao gần đây con không thể ngồi thiền lâu được, mặc dù trước đây con đã ngồi được 45 đến 60 phút rồi đấy ạ.
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiDanh sách các chủ đề phổ biến
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiCâu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiThầy khuyên không nên lệ thuộc vào ngồi thiền là vì những lý do sau đây:
– Cho rằng chỉ có ngồi mới là thiền và ngồi thiền mới đắc đạo, do đó dễ xem thường những người không ngồi mà hành thiền trong các oai nghi và hoạt động tự nhiên khác.
– Ngồi nhiều làm mất quan bình bốn oai nghi, dẫn đến trì trệ khí huyết và tinh thần căng thẳng (do mong muốn mau đạt kết quả) nên dễ sinh bệnh.
– Dễ bị lệ thuộc vào thời gian và phương pháp nên khó thích ứng với thực tại phi thời gian, vượt ngoài khuôn định.
– Dễ rơi vào định và dính mắc trong định. Định xây dựng trên tưởng nên làm trở ngại cho sự tỉnh giác của thiền tuệ.
– Ngồi nhiều trong điều kiện tĩnh sẽ khó thích ứng để thấy pháp trong điều kiện động hoặc trong nghịch cảnh
– Nếu có sở đắc sẽ dễ kẹt vào sở đắc, dễ sinh ngã mạn vì cho rằng kết quả đạt được là do nỗ lực của ta, cho nên khó thấy được thực tánh vô thường, khổ, vô ngã.
– Khi người ngồi thiền chưa biết rõ thiền là gì thì thường rơi vào tình trạng cố gắng loại bỏ điều này và nỗ lực đạt được điều kia, do đó bị tham sân si chi phối hơn là thực sự thiền.
– Ngồi thiền không đúng còn tệ hơn là không ngồi thiền v.v…
Nhưng không nên lệ thuộc vào ngồi thiền không có nghĩa là không được ngồi thiền. Nếu ngồi đúng nguyên lý vô ngã của thiền là “nội tâm thanh tịnh và thấy rõ thực tánh pháp” thì nó cũng có giá trị như những oai nghi khác hay những hoạt động thiền khác trong cùng nguyên lý.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lời1) Tất nhiên có thể dụng pháp khi đã thấy rõ tính chất thật của pháp. Dụng pháp như vậy cũng chính là thuận pháp. Nhưng nếu chưa thấy pháp mà dụng pháp thì không ai cấm, chỉ có điều là sẽ tự hại mình. Ví như uống thuốc, tối thiểu cũng phải “đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng”, nếu không thì phản tác dụng. Do đó, đừng vội dụng pháp mà phải quan sát học hỏi pháp trước.
2) Con thở như vậy là thở ngực nên hít vào thì bụng xẹp, còn thở ra là bụng phồng. Nếu thở bụng thì ngược lại, hít vào bụng phồng, thở ra bụng xẹp. Nhưng cả hai đều có vẻ như không tự nhiên lắm. Theo thầy thì nên “Thuận thiên lập mệnh” tức là thuận theo luật tự nhiên của pháp mà sống, chẳng hạn như cứ thở tự nhiên chứ không nên thở theo ý mình hay theo một phương pháp quy định nào cả. Mỗi phương pháp thở đều sẽ đưa đến một hiệu quả khác nhau, nhưng dù tốt hay xấu đều không tự nhiên, mà phản tự nhiên thì gọi là “Nghịch thiên giả vong” – nghịch lại với thiên nhiên là tự đào thải.
3) Cái đó còn tùy vào trình độ nhận thức của con về “cơ thể mách bảo” như thế nào, và cơ thể có “mách bảo” đúng hay không thì con phải tự học lấy bài học của mình để điều chỉnh nhận thức và cách xử lý cho vừa hợp với điều kiện của con, vừa hợp với nguyên lý của pháp là được.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lời1) Muốn cho tâm trụ ở đâu đó cũng được, nhưng thực ra không cần phải trụ tâm ở đâu cả. Khi có đối tượng thì tâm tự ứng ra thấy biết, khi không có đối tượng thì tâm tự an (trở về rỗng lặng như hư không), như vậy ai trụ tâm? Chính vì có người trụ tâm nên mới có phóng tâm. Nếu buông cái người trụ tâm ấy đi thì tâm tự ứng tự an một cách tùy duyên thuận pháp, làm sao có phóng tâm được? Do đó đức Phật dạy: “Không nương tựa, không bám níu vật gì ở đời”. Ngài Huệ Năng ngộ ra điều đó khi nghe câu: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” và thấy rằng tâm vốn “không một vật” (vô nhất vật). Vậy lấy gì mà trụ? Và khi ngủ thì ai trụ tâm và tâm trụ ở đâu? Tâm tự ứng tự an chính là chánh niệm. Trong chánh niệm không có người niệm nên Thiền Tông gọi đó là vô niệm.
2) Khi không làm gì, ngồi (đứng hay nằm) yên thì tâm chỉ còn thấy thân đang thở là đối tượng nổi trội nhất, thấy như vậy một cách tự nhiên, tuyệt không cố gắng điều khiển hay rèn luyện gì cả, thì đó chính là chánh niệm tỉnh giác, vì vậy gọi là niệm thở vô thở ra (ānāpāna-sati). Nhiều người không biết rằng ngay đó chính là tâm tự ứng chánh niệm tỉnh giác và thấy tánh, nên đã đặt ra rất nhiều phương pháp thở khác nhau để luyện thân, luyện tức, luyện tâm mà biến thành yoga, khí công, luyện đan… nhưng không khéo lại rơi vào ý đồ hoàn thiện của bản ngã. Như vậy, rốt ráo mà nói đó là thất niệm chứ không phải chánh niệm như đức Phật đã dạy.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiCâu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiTrong thiền định thì hôn trầm, giải đải, thờ ơ, lười chán, thụ động… được gọi chung trong triền cái hôn trầm thụy miên. Còn phóng tâm, dao độngj, tán loạn, hối tiếc… được gọi chung trong triền cái trạo hối. Cả hai triền cái này cùng với triền cái nghi thuộc về phần si trong 5 triền cái. Hai triền cái còn lại là tham dục và sân hận thuộc phần tham và phần sân.
Về yếu tố bên trong thì thiền chi tầm (vitakka) có thể chế ngự được hôn trầm, tức là khi khởi tâm hăng hái hướng đến đối tượng thì không có trạng thái hôn trầm giải đải nữa. Thiền chi lạc (sukha) có thể chế ngự được trạo cử tán loạn, tức khi tâm đã an ổn thì không có trạng thái trạo cử nữa.
Về yếu tố bên ngoài thì muốn chế ngự hôn trầm cần phải: 1) Không nên ăn no và thức ăn khó tiêu. 2) Thường thay đổi oai nghi. 3) Nên ở chỗ có ánh sàng. 4) Nên ở chỗ thông thoáng. 5) Nên tắm rửa cho tươi tỉnh v.v… Muốn chế ngự trạo cử tán tâm thì cần phải: 1) Học cho thông hiểu lý thuyết pháp hành. 2) Điều gì còn vướng mắc cần phải hỏi cho rõ. 3) Không để thời gian tâm lý chi phối. 4) Tin tưởng vào bậc thầy đã liễu đạt. 5) Nên sắp xếp mọi thứ xung quanh cho trật tự v.v… nghĩa là không tạo điều kiện cho tâm nghĩ ngợi lăng xăng.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiKhông nên tập thiền niệm hơi thở theo một phương pháp nào cả, vì như vậy là bị lệ thuộc vào cái ta đang muốn rèn luyện với mục đích đạt được một trạng thái như ý, và cũng lệ thuộc vào phương pháp đó. Niệm hơi thở chỉ có mục đích đưa tâm trở về với thân để tâm không lang thang thất niệm. Đồng thời khi tâm trở về chánh niệm nơi thân thì trí tuệ tỉnh giác liền thấy thực tánh vô thường, khổ, vô ngã của cái thân tứ đại giả hợp.
Chỉ cần con ngồi thư giãn, buông xả, để tâm rỗng lặng trong sáng thì chánh niệm tỉnh giác sẽ tự ứng ra để thấy tiến trình thở vào thở ra một cách tự nhiên, đó chính là thiền lấy động tác thở làm đối tượng.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiCâu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiThực ra con vẫn chưa nhận ra được tánh biết. Con đang sử dụng cái biết của ý thức trong 6 thức, do đó con chỉ biết đối tượng của ý thức chứ không biết hoạt động của tâm ý. Tánh biết thì biết được cả 18 giới (6 căn + 6 trần + 6 thức), nghĩa là biết luôn cả sự tương giao vận hành của ý – pháp – ý thức. Có thể tạp niệm khởi lên con không ý thức được nhưng tánh biết vẫn biết, chứ không phải tánh biết biến mất như con tưởng, nếu biến mất con làm sao biết có tạp niệm khởi lên? Làm sao đức Phật lại dạy niệm tâm? Làm sao có tuệ thấy biết danh sắc? (trong đó danh chính là mọi hoạt động thuộc về tâm và tâm sở).
Con nói “Trong lúc thiền thì 6 căn không tiếp xúc với 6 trần” đó là con đang hành thiền định chứ không phải thiền thấy pháp thầy đang hướng dẫn. Con nên vào trang web của thầy đọc thêm và nghe pháp thoại thật kỹ, đừng hành theo thói quen sẽ khó điều chỉnh lại được. Thầy đã nói tâm thiền là tánh biết sáng suốt định tĩnh trong lành trong sự tương giao giữa 6 căn 6 trần, chính vì vậy mới thấy được cả 18 giới, đó chính là sự phòng hộ lục căn đúng đắn và hiệu quả nhất, chứ không phải kìm giữ các căn. Phật dạy thấy như thực, nghe như thực, xúc như thực, biết như thực thì làm sao lại không để 6 căn tiếp xúc với 6 trần được!
Con nói: “Có hôm cả buổi thiền con chỉ thấy toàn là tạp niệm lăng xăng chứ tâm không an ổn vắng lặng được”. Vậy cái gì thấy tạp niệm lăng xăng? Cái gì biết tâm không vắng lặng? Nếu con nói “con không biết mình đang vọng động mà vọng động rồi mới biết” thì đó là con nói không ý thức được chứ không phải tánh biết không biết, bởi vì nếu tánh biết không biết thì khi con có ý thức trở lại con cũng không biết vừa rồi có vọng đọng hay không vọng động, và làm sao con biết mình không biết (theo nghĩa ý thức)? Vậy tánh biết sáng suốt định tĩnh trong lành có thể biết được vọng động, biết được lúc con ý thức biến mất, phải vậy không?
Thiền con đang hành là thiền định nên con mới mong an ổn vắng lặng. Thiền thầy dạy là khi an ổn vắng lặng thấy an ổn vắng lặng, khi không an ổn vắng lặng thấy không an ổn vắng lặng, chứ không phải thiền để mong đạt được trạng thái an ổn vắng lặng, vì mọi trạng thái duyên khởi đều vô thường, khổ, vô ngã thì đạt đến làm gi? Hơn nữa mong cầu đạt được an ổn là tham, và mong cầu chấm dứt bất an là sân. Khi không có tham sân si thì tánh biết tự hiển lộ và soi sáng, (khi có tham sân si con chỉ theo tham sân si mà quên tánh biết chứ không phải tánh biết biến mất). Con đừng cố gắng “hành thiền” theo ý đồ của cái ta ảo tưởng. Tâm thiền chính là buông mọi ảo tưởng của cái ta để tánh biết tự soi sáng thực tại hiện tiền, dù đó là thân, thọ, tâm hay pháp. Dù đó là trạng thái vọng động hay an ổn thì tâm thiền (tánh biết) vẫn chỉ thấy thực tánh như nó đang là không thêm không bớt gì cả.