Kính thưa Sư Ông,
Con đã thực hành thiền Vipassanā tại trung tâm của thiền sư Goenka. Trong quá trình hành thiền tại trung tâm và trở về, con nhận thấy bản thân luôn trong trạng thái mệt mỏi, đau yếu và chán nản. Con không rõ đó có phải do cơ thể và tâm trí con đang giải phóng những đau khổ cũ, hay con chưa đủ khả năng để thực hành phương pháp thiền này.
Con xin thành kính tri ân Sư Ông.
Có thể do con không hợp với pháp thiền đó. Hơn nữa muốn hành con cần thấu hiểu nguyên lý của thiền Vipassanā thì hành mới đúng. Con nên nghe pháp thoại thầy giảng cho đến khi thấy ra thì con sẽ hành được dễ dàng và hiệu quả.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy,
Dạo gần đây con vừa biết đến thiền Vipassanā. Theo những hướng dẫn con đọc được, phải thận trọng khi hành thiền Vipassanā để không bị nhầm lẫn giữa thiền ám thị, thiền tinh tấn, thiền niệm, thiền định, và nhất là thiền tư duy quán tưởng…
Con đã thử tìm hiểu sự khác biệt giữa các loại thiền trên (đặc biệt là thiền tư duy quán tưởng) nhưng hầu hết các tài liệu đều không chỉ rõ ràng. Kính thưa Thầy có thể từ bi chỉ rõ cho con, khi hành thiền Vipassanā phải hành ra sao để không bị rơi vào tưởng hay rơi vào một trong các loại thiền trên? Làm sao để có thể phân biệt được nếu mình đang rơi vào trạng thái thiền nào đó mà không phải Vipassanā? Và thiền tư duy quán tưởng là gì mà vì sao khi hành thiền Vipassanā lại dễ rơi vào thiền tư duy quán tưởng?
Con mong Thầy từ bi chỉ dạy.
Con xin cám ơn Thầy
Đúng là không nên nhầm lẫn thiền Vipassanā với thiền ám thị, thiền tinh tấn, thiền tuỳ niệm, thiền định và thiền tư duy quán tưởng.
Thiền ám thị dùng một tư tưởng tích cực gieo vào tâm thức để tâm chuyển hoá theo hướng tốt để loại trừ tư tưởng tiêu cực.
Thiền tinh tấn dùng nỗ lực để rèn luyện tâm như tham một công án hoặc trì một câu chú một cách tích cực miên mật cho đến khi có kết quả.
Thiền tuỳ niệm dùng một đề mục để lặp đi lặp lại cho đến khi tâm nhất niệm, như niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm thí, niệm thiên v.v…
Thiền định dùng một đối tượng kasina để tập trung tâm, khởi đầu bằng tầm-tứ cho đến khi tâm an trú trong các bậc định hữu sắc và vô sắc.
Thiền quán tưởng dùng tư duy, phân tích sự việc theo hướng đúng đắn để không rơi vào tình trạng sai lầm, thí dụ chư Tăng quán tưởng tứ vật dụng.
Thiền Vipassanā dùng tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn soi sáng thực tại thân-thọ-tâm-pháp để trực nhận thực tánh không qua không qua khái niệm, tư tưởng.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch sư. Kính sư giải thích cho con được rõ như thế nào là không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng, và xin sư cho con một ví dụ. Kính sư
Tướng chung và tướng riêng thuộc khái niệm do đó thấy bằng tưởng tri và thức tri, trong khi hành Vipassanā là thấy thực tánh, nên trong thấy chỉ thấy, trong nghe chỉ nghe, trong xúc chỉ xúc, trong biết chỉ biết bằng tuệ tri.
Như thấy “Người này mặt tròn”. Người là tướng chung, mặt tròn là tướng riêng.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con xin đảnh lễ Thầy,
Thưa Thầy con nghe Pháp của Thầy gần được 1 năm, và đều đặn hằng ngày vì cảm thấy mỗi ngày nghe là học được 1 bài học mới, và con vẫn điều chỉnh hành vi nhận thức hằng ngày đúng tốt. Con trước giờ không theo Đạo, chỉ biết sống đúng tốt, nhưng từ khi biết đến Thầy, ngày nào con cũng mở pháp thoại để nghe và thực hành theo. Lời thầy dạy vô cùng hữu ích, đã khai mở tâm trí con rất nhiều. Sau khi nghe kỹ các video thầy giảng Thiền là gì, Thiền trong mọi hoạt động đời sống hằng ngày như thế nào, biết hiện tại đang là, biết thân thọ tâm pháp đang như thế nào, không mong cầu sở đắc. Và sau khi hiểu được Thiền là gì, con xin phép được hỏi, Thầy có thể chỉ dạy cho con biết thêm về Thiền định được không ạ? Con cảm ơn Thầy.
Thiền mà thầy giảng là thiền Vipassanā trong đó có đủ giới định tuệ rồi, con không cần mất thì giờ với thiền định nữa. Con nên xem thêm cuốn “Sống Trong Thực Tại” trong đó có chương 8 nói về thiền định.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy!
Con muốn hỏi thầy liệu việc tu tập định tâm có giúp gì cho việc minh sát tâm không ạ? Hay chỉ cần chánh niệm tỉnh giác? Tại vì nhiều khi con bị tham đắm và sân hận che lấp đi quá nhiều, con cảm thấy rất khó khăn trong việc nhìn sự vật như nó là, xin thầy chỉ cho con trong trường hợp này ạ.
Nhìn sự vật với tham, sân là tâm dục giới, nhìn sự vật với thiền định là tâm sắc giới hoặc vô sắc giới. Cả ba đều là nhận thức bởi tâm thế gian, vẫn còn thấy sự vật qua khái niệm. Để minh sát thực tánh của mọi sự vật chỉ có tuệ tri bởi chánh niệm tỉnh giác mà thôi. Tại con chưa hiểu đúng thiền minh sát mới lúng túng như vậy.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa sư ông, con xin phép được chia sẻ bài viết là đoạn trao đổi giữa ngài Krishnamurti và sư Rahula. Nội dung đoạn nói chuyện cũng là những điều sư ông thường khai thị với đại chúng ạ.
“THIỀN KHÔNG PHẢI KỸ THUẬT LUYỆN TÂM
Đoạn trích dưới đây, là một phần trao đổi từ Krishnamurti và Sư Rahula, một cao tăng Nam tông, được nhìn nhận là người có uy tín am hiểu về trường phái Phật Giáo Nguyên thủy và Phật Giáo Đại thừa.
Tư liệu của PAD.
W. Rahula: Vipassana là cái thấy của tuệ giác, thấy sâu vào thực tướng, vào thực chất của sự vật, đó là cái thấy chân thật.
Krishnamurti: Nhưng thiền ấy có hệ thống chi không?
W.R: Là một hệ thống đã triển khai.
K: Đó là chỗ tôi muốn hỏi.
W.R : Vâng, nhưng khi ông xem xét giáo lý nguyên thủy của Đức Phật thì…
K: Không có hệ thống.
W.R: Bài pháp tuyệt vời nhất của Phật về thiền tuệ giác được gọi là Satipatthana (Tứ niệm xứ). Không có hệ thống.
K: Tôi đang nghe đây, thưa ngài.
W.R: Và điểm mấu chốt trong đó là Awareness (giác), sati (tiếng Pali), còn tiếng Phạn cổ (Sanskrit) là Smriti. Và Chú Tâm, Giác Tri tất cả mọi sự đang diễn ra, đừng toan tính lẩn tránh cuộc sống, sống trong hang động hoặc rừng già, ngồi như pho tượng v.v… Giác không phải là thế. Và Satipatthana có lúc được diễn dịch là chánh niệm, nhưng nghĩa chính xác của từ này là sự có mặt của giác, giác từng giây từng phút mọi động niệm, mọi hành động, giác tất cả mọi sự vật.
K: Giác này có thể đào tạo nuôi dưỡng không?
W.R: Không có vấn đề đào tạo nuôi dưỡng.
K: Đó là chỗ tôi muốn đề cập. Bởi vì các đạo sư, thầy tu với các hệ thống tư tưởng hiện đại về thiền, thiền Zen hiện đại, chắc ông biết mọi điều đó, đang ra sức đào tạo nuôi dưỡng thiền.
W.R: Vâng, tôi đã viết một tiểu luận nói về thiền Phật giáo đã được xuất bản ở Bỉ bởi sự bảo trợ của Hoàng tử Etienne Lamotte. Trong đó tôi đã nói rằng giáo lý này của Phật đã bị hiểu sai và áp dụng sai như một kỹ thuật luyện tâm qua nhiều thế kỷ. Lời dạy của Phật đã được triển khai và biến thành một kỹ thuật luyện tâm, cho nên thay vì giải thoát tâm trí, lại làm tù ngục tâm trí.
K: Đương nhiên, tất cả mọi loại thiền.
W.R: Nếu thiền biến thành một hệ tư tưởng.
K: Thưa ngài, phải chăng giác là vật gì đó do đào tạo tu dưỡng, trong ý nghĩa là nó được khiển dụng, giữ gìn và tạo ra?
W.R: Không, không phải vậy.
K: Vậy thì thiền phát sinh cách nào?
W.R: Không có việc phát sinh mà ông hãy hành thiền.
K: Khoan, thưa ngài, hãy nghe này. Tôi muốn khám phá, tôi không phê bình chi cả, tôi chỉ muốn khám phá xem thiền Phật giáo là gì. Bởi vì hiện nay có quá nhiều loại thiền Phật giáo khác biệt, thiền Tây Tạng, thiền Ấn Độ, thiền Sufi – trời ơi, chắc ngài biết mà, chúng như nấm mùa mưa mọc khắp nơi. Tôi chỉ muốn hỏi liệu giác có diễn ra thông qua tập trung tư tưởng?
W.R: Không, trong lãnh vực này thì không. Bất cứ ta làm việc gì ở đời đều cần tập trung tư tưởng. Điều đó hiểu được, nhưng ta đừng trộn lẫn Giác với thiền na (dhyana) và định (samadhi).
K: Riêng tôi, tôi không thích các từ này.
W.R: Bởi vì trong cốt lõi, chúng đều dựa vào việc tập trung tư tưởng.
K: Tôi hiểu. Đa số thiền được truyền bá trên khắp thế giới đều dính dáng với việc tập trung.
W.R: Trong thiền Zen và mọi sự tu tập khác biệt trong samadhis và dhyanas Phật giáo hay Ấn Độ giáo, động thái chủ yếu là tập trung tư tưởng.
K: Không có nghĩa lý chi cả, tôi phủ nhận sự tập trung.
W.R: Nhưng trong lời dạy chính xác và thuần túy của Đức Phật, thiền không phải là tập trung.
K: Thiền không phải là tập trung, hãy nói như thế đi. Vậy, giác này là gì, nó phát sinh cách nào?
W.R: Ông giác, giác mọi sự đang diễn ra. Hành động cực kỳ hệ trọng trong Satipatthana (Tứ niệm xứ) là sống trong hành động đang diễn ra trong khoảnh khắc hiện tại.”
Con xin tri ân và đảnh lễ sư ông.
Sādhu lành thay! Thật tuyệt, đó đúng là một đoạn đàm đạo giá trị của các bậc trí đã thật sự thông suốt. Cảm ơn chia sẻ của con.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy con có chỗ xin Thầy giảng giải giúp con ạ.
Thiền quán = Thiền Vipasanā = Thiền tuệ phải không thầy (Giới Định Tuệ)
Như trong pháp thoại “Phân biệt niệm Hơi Thở và Sự Thở” Thầy có nói.
Thiền tuệ là (Giới+Định+Tuệ) luôn đồng hành cùng nhau.
Nhưng nếu mình không có cái định trong sáng thì mình không thể quán được phải không Thầy.
Con có nghe nói:
“Thiền định thì có thể có chỉ mà không có quán nhưng thiền quán thì không thể không có chỉ.”
Muốn quán thì cần phải có cái thức trong sáng (ít nhất phải nhị thiền trở lên – Định Sanh hỷ lạc)
Như vậy có đúng không Thầy?
Con cảm ơn Thầy.
Con nghe thêm pháp thoại đi, những điều này thầy đã nói rõ rồi.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con xin kính lễ Thầy,
Thầy cho con hỏi: theo kinh Đại Niệm Xứ hướng dẫn thực hành Thiền Minh Sát khi lấy đề mục là sự thở thì cần quan sát 4 giai đoạn của sự thở là: thở vào, thở ra; thở dài, thở ngắn; cảm giác toàn thân, an tịnh toàn thân khi thở vào thở ra.
Xin thầy hoan hỷ chia sẻ cho con được rõ: như thế nào là cảm giác toàn thân và an tịnh thân hành khi thở vào khi thở ra ạ.
Con xin tri ân Thầy.
Thưa Thầy,
Trước đây, khi con ngồi quan sát hơi thở vào ra nơi đầu mũi, 1 thời gian sau con thấy an tĩnh, mọi thứ ngưng bặt như đang ngủ, khi mở mắt ra thì đã hơn 30ph hoặc 1 giờ. Ý con là thời gian đồng hồ có vẻ trôi qua nhanh hơn thời gian cảm nhận bằng tâm lý.
Nhưng dạo gần đây, khi con thực hành thì không có trạng thái ngưng bặt như ngủ nữa mà vẫn có sự an tĩnh và con thấy rõ sự an tĩnh, thân thể nhẹ nhàng. Nhưng trong tình huống này thì khi con mở mắt ra thời gian thực tế lại ngắn hơn thời gian cảm nhận của tâm lý. Ví dụ con cảm thấy trạng thái an tĩnh này dường như diễn biến hơn 30ph, 1 tiếng, nhưng thời gian đồng hồ thì khoảng 15-20ph thôi.
Nhờ Thầy chỉ giúp con, liệu như vậy có bình thường hay có thực hành đúng không ạ?
Con cảm ơn Thầy.
Khi định vì trụ tâm lại nên không còn quan tâm đến thời gian vật lý do đó 30 phút mà tưởng chừng như một chớp mắt. Khi quán, tâm theo dõi diễn biến cuả thân, thọ, tâm, pháp từng sát-na nên tưởng chừng như lâu lắm nhưng thực tế chỉ mới 15-20 phút thôi. Như vậy cả hai trường hợp đều rơi vào thời gian tâm lý.
Tuy nhiên, định đó thuộc tứ thiền bát định (sắc giới, vô sắc giới), và quán đó cũng thuộc quán của lý trí – thức tri, chưa phải đúng chánh niệm tỉnh giác thuộc tuệ tri. Khi thực sự tuệ tri thì định và tuệ đều vượt khỏi thời gian (akāliko) không còn rơi vào thời gian tâm lý nhanh hay chậm nữa.
Nếu con chưa thông suốt điều này thì định và tuệ mà con đang hành chưa phải định tuệ đích thực mà đức Phật chỉ dạy.