Câu hỏi:
Thưa Thầy! Xin Thầy cho con biết sự khác nhau và sự liên hệ giữa Niệm và Định trong thiền quán? Con xin cám ơn Thầy!
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiDanh sách các chủ đề phổ biến
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiCâu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lời1) Luân hồi sinh tử có hai nghĩa: Một là sự tái sinh từ kiếp này qua kiếp khác theo định luật nhân quả của nghiệp. Hai là sự sinh diệt của những tiến trình tâm-sinh-vật lý kế tục không dứt trong sự tương giao căn – cảnh – thức diễn ra trong đời sống hàng ngày đối với những người chưa giác ngộ giải thoát hoàn toàn. Tiến trình này trong một giây có thể diễn đi diễn lại hàng triệu lần nên gọi là luân hồi sinh tử. Nếu đó là tiến trình tạo nghiệp thì đúng là nhân tái sinh trong những kiếp sau.
2) Một người hành đúng thiền Vipassanà thì nếu chưa hoàn toàn thoát ly sinh tử, trong kiếp sau họ đương nhiên sẽ có cơ hội hành thiền Vipassanà trở lại. Nhưng nếu hành không đúng thì kiếp sau họ sẽ hành một pháp thiền mà nội dung giống như họ đã hành sai trong kiếp này. Ví dụ, mặc dù họ nói là hành thiền tuệ, nhưng thực chất lại đang hành thiền định thì kiếp sau họ sẽ có duyên với một pháp thiền định nào đó tương ứng với trình độ tâm của họ, vì trong kiếp sau những gì còn lại chính là trình độ tâm mà họ tạo được trong kiếp này cộng với những kiếp quá khứ của họ.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiTất nhiên nếu người chưa đủ khả năng “buông ra là thấy cái thấy của thiền tuệ” thì cần 4 pháp hỗ trợ như thầy đã nói (Niệm Phật, niệm bất tịnh, niệm tâm từ, niệm sự chết tùy theo căn tính của mỗi người). Tuy nhiên 4 pháp hỗ trợ này không phải là thiền tuệ mà chỉ giúp cho hành thiền tuệ dễ hơn thôi nên không làm hỏng thiền tuệ. Trái lại nếu hành thiền tuệ không đúng từ đầu thì khó mà điều chỉnh lại. Ví dụ như người đánh máy vi tính, đã đánh quen 2 ngón thì khó mà tập lại đánh 10 ngón, nên từ đầu phải tập đánh 10 ngón ngay mới được. Học đàn cũng vậy, phải học sử dụng ngón tay đúng từ đầu, đã quen sử dụng ngón tay sai sau chỉnh lại khó lắm. Ví dụ nhìn các dây đàn càng chứng tỏ đàn dây nào nhìn dây đó chứ không thể nhìn vào một dây đàn nhất định nào được.
Cái sai của nhiều người là không phân biệt được thiền định và thiền tuệ nên đã đem thiền định vào thiền tuệ mà hành, tưởng định tâm càng nhiều càng tốt! Thực ra định tâm nhiều thì hết hành thiền tuệ được. Phải dùng pháp hóa giải thiền định đó đi mới vào thiền tuệ được. Trong thiền tuệ chỉ sử dụng sát-na định và tùy thời định mà thôi (xem Chương 8 – Sống Trong Thực Tại). Nhiều người hiểu lầm đã dùng phương pháp niệm phồng xẹp của Ngài Mahasi như đề mục thiền định, thậm chí còn đắc những ấn chứng của thiền định mà họ tưởng đã đắc tuệ! Vì vậy chỉ dừng lại ở đó không thể vào thiền tuệ được. Khi đã dùng một đề mục nhất định để thiền tức là đã rơi vào thiền định rồi.
Thiền tuệ là cái thấy trong sáng không dự định trước, đã dự định hành thiền tuệ theo cách (phương pháp) nào đó có sẵn thì không còn là thiền tuệ nữa. Buông hết mọi dự định để cho tâm rỗng rang trong sáng tự nhiên thì ngay đó bất cứ đối tượng nào cũng là đối tượng của thiền tuệ được cả. Tâm thiền tuệ phải giống như tấm gương trong sáng, đối tượng nào vào thì thấy, không vào thì thôi, chứ không đi tìm đối tượng, khác xa với thiền định là phải tìm đối tượng nhất định để chuyên chú. Vậy đừng nên hành thiền tuệ theo kiểu thiền định mà cả định lẫn tuệ đều chẳng tới đâu!
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiThấy biết như chân như thật, rõ ràng và trực tiếp là nguyên lý cốt lõi của thiền. Trong Thiền Tông thấy được nguyên lý này gọi là ngộ hay kiến tánh. Thiền Vipassanà gọi là tuệ thấy thực tánh pháp. Vậy người nào có khả năng thấy biết trực tiếp ngay trên thân, thọ, tâm, pháp thì người ấy không cần phải mất thời gian rèn tập qua phương pháp nào cả. Tất nhiên, người không có cách nào thấy pháp một cách trực tiếp thì đành phải đi lòng vòng theo phương pháp. Phương pháp cũng tốt miễn là đừng kẹt vào đó là được. Thường thì người ta bị kẹt vào phương pháp nên lúc đầu phương pháp rất hữu ích, nhưng về sau bị trì trệ không tiến được nữa.
Con là bác sĩ hẳn biết rất rõ điều này. Một người mạnh khỏe không cần dùng thuốc bổ, chỉ cần biết ăn uống và hoạt động điều hòa tự nhiên là được, chỉ khi nào bị bệnh hoặc suy dinh dưỡng mới phải dùng thuốc bổ. Nhưng khi dùng thuốc bổ đã được khỏe mạnh bình thường thì không nên uống nữa, nếu thấy tốt mà uống mãi thì sẽ mất đi nội lực tự sinh sẵn có nơi mỗi người, thậm chí còn sinh ra bệnh nữa. Nội lực đó chính là khả năng thấy biết như thật sẵn có nơi mỗi người. Nếu có thể sử dụng nó một cách trực tiếp thì không cần mất thời gian cho phương tiện nào cả. Sống thuận pháp ngay tại đây và bây giờ gọi là chánh pháp, áp dụng phương tiện để tu tập gọi là tượng pháp, không thoát khỏi được phương tiện gọi là mạt pháp. Đó là vấn đề căn cơ trình độ của mỗi chúng sanh.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lời1) Đi thọ bát quan trai ở chùa cũng tốt, mà tự mình thọ ở nhà cũng được, tùy theo điều kiện cho phép của mỗi người. Quan trọng là ngày hôm đó có thọ bát quan trai giới trong sạch thanh tịnh hay không mà thôi. Bát quan trai mục đích giúp người tại gia, không có điều kiện xuất gia, có thể tập sống không lệ thuộc vào một số phương tiện hưởng thụ để sống giản dị, thanh thoát, và ít bị ràng buộc hơn.
2) Có loại định cần thiết cho thiền tuệ, có loại định trở ngại cho thiền tuệ. Nói một cách tổng quát, định nào dính mắc vào thời gian, sở đắc và bản ngã đều trở ngại cho thiền tuệ. Định nào không vướng kẹt trong quá khứ, hiện tại, vị lai (thời gian), không trú vào sở đắc, không có bản ngã sở đắc mới có thể xứng hợp với giới và tuệ trong thiền tuệ được. Con vào mục Thư Viện trong trang Web này để xem thêm bài viết của thầy về đề tài này: Thực Tại Hiện Tiền 2, chương 8: Nội tâm tĩnh lặng. Chúc con tu hành tinh tấn.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiĐây là một câu hỏi hay. Nhiều người nghe hành thiền Vipassanà có kết quả nhanh và tốt thì cứ việc tin tưởng và hành theo mà không hề biết phương pháp của người dạy mình đúng hay sai, thật hay giả. Nguyên nhân là vì thiếu nhận thức cơ bản về pháp học. Pháp học ở đây không phải là học hết Tam Tạng kinh điển, mà là có nhận thức đúng cốt lõi của giáo Pháp, nhất là tính chất và mục đích của pháp hành thiền tuệ. Đặc biệt trong thiền tuệ, không những có một số phương pháp sai lầm, cho dù phương pháp đúng mà chỉ hiểu sai một ly thôi cũng không còn là thiền tuệ nữa. Hiện nay thiền Vipassanà đang phổ biến trên thế giới, nhưng cũng chính vì thế mà sinh ra tình trạng vàng thau lẫn lộn. Điều đó là tất nhiên thôi, nhưng người học thiền thì nên đề cao cảnh giác không nên vội vàng cả tin. Hãy đọc lại cho thật kỹ bài kinh Kalama, để thấy chính đức Phật đã cảnh báo như thế nào về việc tin và hành.
Nhiều người sống chẳng ra gì nhưng lại tự mình cho mình là thiền sư, mà thực chất chỉ là đang thực hiện ý đồ danh lợi… Đơn giản là họ chỉ qua Thái Lan, Miến Điện, Tây Tạng hay Nhật Bản gì đó, hoặc thậm chí chỉ cần nghe được một vài điều từ người khác, và nếu chưa phải là nhà sư thì họ xin tu gieo duyên, rồi sẵn có phương pháp trong tay, nghiễm nhiên trở thành một … “thiền sư”! Chính trong thời mạt pháp này người học Pháp cần phải hết sức cẩn trọng, đừng tự hại mình và tiếp tay cho kẻ phá hoại Phật Pháp. Thầy nói lên sự thật này không phải để chỉ trích ai, mà chỉ nhằm mục đích giúp cho những người đang tìm Đạo không bị đánh lừa.
Có những điều sau đây giúp con thấy ra đúng và sai trong khi tu học:
– Tri kiến (thấy biết) là trụ cột của thiền Vipassanà, tri kiến đúng là hành đúng, tri kiến sai là hành sai.
– Vipassanà có nghĩa là thấy biết như thực, vậy không có gì để hành ngoài thấy biết trực tiếp và chân thực, không qua bất kỳ khái niệm nào. Nói cách khác thấy biết như thực tức là đang hành thiền Vipassanà .
– Dựng lên phương pháp rồi áp dụng để hành và dựng lên đối tượng rồi lấy đó để quán là không phải thiền Vipassanà. Vì cái gì được dựng lên đều là khái niệm, không phải là thực tánh pháp tự nhiên.
– Có hứa hẹn sở đắc không phải là thiền Vipassanà. Hứa hẹn là tương lai, trong khi thiền Vipassanà hoàn toàn xảy ra trong hiện tại. Có sở đắc tức có ngã và ngã sở, hay nói cách khác là đồng hóa ngã với pháp (ngã chiếm hữu pháp), thì không thể nào thấy được ba tính chất vô thường, khổ, vô ngã của Pháp tánh tự nhiên.
– Phương pháp nào nhằm diệt khổ được lạc không phải là thiền Vipassanà, ngược lại, hành Vipassanà phải loại bỏ mục đích diệt khổ để được lạc, vì ý muốn diệt khổ là tâm sân, ý muốn được lạc là tâm tham. Pháp thiền Vipassanà dạy rằng khi chánh niệm tỉnh giác không để tham sân xen vào. Nếu không, không phải là hành thiền theo Đạo Đế mà đang hành theo Tập Đế. Nói rõ hơn là đang hành theo tiếng gọi của bản ngã tham sân si.
– Không áp dụng bất cứ kiến thức nào để hành thiền Vipassanà, dù đó là kiến thức Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), trừ phi kiến thức đó không còn là khái niệm mà là thực tại hiện tiền. Ví dụ như không phải kiến thức về thân, thọ, tâm, pháp mà là trực nhận thân trên thân, thọ trên thọ, tâm trên tâm, pháp trên pháp.
– Không áp dụng bất cứ khuôn khổ, phương pháp hay ý niệm nào đã định sẵn vào pháp hành Vipassanà, vì như vậy là lấy quá khứ chụp mũ pháp, bóp méo pháp hiện tại chứ không phải tôn trọng pháp nguyên vẹn như nó là để thấy ra thực tánh. Pháp gì bị khuôn định sẵn thì không phải là pháp thực tại vận hành tự nhiên. Không bao giờ có thể thấy thực tánh ngoài pháp thực tại tự nhiên. Phương pháp chỉ có thể đem đến lợi ích tục đế nhưng không thể chứng ngộ chân đế.
– Tất cả những pháp thấy ra trong khi thiền định (mà người ta thường lầm là thiền tuệ!) đều do tưởng sinh, tuyệt đối không phải là thực tánh pháp. Thực tánh Pháp không phải là ảo ảnh, dù đó là ảo ảnh do định sinh, trừ phi thấy bản chất của nó là tưởng.
– Nếu có người nói họ đã đắc pháp này pháp nọ, thì dù có thực đó cũng chỉ là kinh nghiệm. Trí tuệ Vipassanà không phải để thu thập kinh nghiệm mà chính là hóa giải mọi kinh nghiệm sở đắc, vì kinh nghiệm chỉ làm giàu bản ngã.
– Đừng vội tin những gì thiền sư nói mà hãy xem những gì thiền sư ấy thể hiện trong đời sống hàng ngày. Một vị thiền sư không thể dạy đúng khi tự mình không sống đúng. Đó là lý do vì sao trong Thiền Tông người ta dùng từ khám nghiệm để chỉ sự khám phá chính mình hay khám phá một thiền sư thực ngộ hay chỉ là giả ngộ.
– Một vị thiền sư có đạo đức chưa hẳn đã giác ngộ, nhưng thiền sư giác ngộ luôn luôn đạo đức. Người đạo đức là tốt và đáng kính nhưng nếu chưa giác ngộ thì chưa hẳn dạy thiền đúng. Cần phải phân biệt rõ hai điều này.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiCâu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lời1) Thực tánh xuất hiện khi thấy biết hoàn toàn lặng lẽ trong sáng, không bị một khái niệm nào của lý trí xen vào. Con có thể học và hiểu thực tánh là gì nhưng đó chỉ là khái niệm về thực tánh chứ không phải thực tánh. Nhiều người do học hiểu Phật Pháp rất rành rẽ nên khi hành thiền đã bị cái hiểu đó đánh lừa, tưởng đã thấy tánh mà thực ra đó chỉ là phóng ảnh của khái niệm, vì hiểu vẫn còn qua khái niệm của thức tri, chưa phải là tuệ tri làm sao thấy được thực tánh! Con cần lưu ý một điều là không phải con thấy, nên đừng cố gắng để thấy hay để “chắc chắn rằng mình đã thấy đúng thực tánh hay chưa?”. Vì càng nỗ lực để thấy càng không thể thấy thực tánh. Nhưng ngay khi buông ra mọi ham muốn tìm kiếm một sự xác định thực tánh thì thực tánh liền xuất hiện.
2) Điều quan trọng không phải là cần hay không cần một thiền sư, mà là con có thực sự thông suốt được thiền quán là gì hay không. Khi con không thông suốt được thiền quán là gì làm sao con biết được sách nào và thiền sư nào nói đúng để hành theo? Con có thể nghiên cứu kinh sách hay tham vấn nhiều vị thiền sư, nhưng chính con phải thấy ra thiền thật sự là gì, nếu không mọi phương pháp hành trì thiền quán đều vô ích. Đặc biệt trong thiền quán Vipassanà thấy tức là hành chứ không áp dụng một phương pháp nào để hành cả. Thấy là tánh biết thấy trực tiếp ngay lập tức không thể thấy qua phương pháp nào được. Vậy hãy thận trọng đừng vội áp dụng bất cứ phương pháp nào để hành cả.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lời