Kính Bạch Thầy, con đang tu pháp môn tịnh độ, con chỉ niệm Phật ở nhà. Mấy ngày truớc con đọc được quyển Thư Thầy Trò, con có thấy pháp môn thiền nên con mong thầy chỉ con những bài pháp về thiền đuợc không ạ?
Kính chào thầy!
Xem câu trả lời
Mục đích của Tịnh Độ là niệm Phật để thấy ra tánh giác của tâm mình vốn thanh tịnh (tượng trưng là cõi Tịnh) và trong sáng (tượng trưng là vị Phật rất sáng). Còn thiền thì ứng tâm thanh tịnh trong sáng (Pabhassara citta) đó để đối nhân tiếp vật. Và khi không có gì để phải ứng ra thì trở về tự tánh rỗng lặng trong sáng. Trở về thể tánh hay ứng ra tướng dụng của tâm thanh tịnh trong sáng là việc làm đương nhiên của người hành đạo, nên nếu con đã tu Tịnh Độ đúng hướng trở về tự tánh thanh tịnh trong sáng thì con sẽ tự biết ứng tâm ra tướng dụng mà sống tuỳ duyên thuận pháp vô ngã vị tha. Thiền Vipassanà (thiền Minh Sát) hay thiền Kiến Tánh chính là tự soi chiếu để thấy ra thể tánh và tướng dụng của cái tâm (tánh biết) trong sáng sẵn có nơi mỗi người. Hãy tự mình khám phá thực tại thân tâm cảnh như nó đang là, đừng cầu cạnh bất kỳ một phương pháp quy định nào của người khác. Nếu chưa thông, con nên nghe pháp thoại và đọc thêm sách thầy hướng dẫn để phá bỏ những quan niệm tu tập sai lầm trong con thì tự nhiên tâm sẽ chiếu sáng, như không bị mây che thì mặt trời tự chiếu vậy.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy,
1. Con xin kính chúc thầy luôn được khỏe mạnh, an vui. Thưa thầy, nhiều người bạn trẻ của con ở bên này (Mỹ) không hiểu hết tiếng Việt. Họ chỉ hiểu kha khá những gì thầy giảng nên khi ứng dụng tu tập cũng hơi lúng túng. Họ nhờ con thưa với thầy, nếu có thể, xin thầy giúp chuyển những lời giảng cốt yếu của thầy sang tiếng Anh. (If possible, please translate the core of your teachings into English). Họ không muốn những lời giảng của thầy được dịch sang tiếng Anh một cách chủ quan của ai đó mà không có thầy duyệt lại để xem từ ngữ dùng có đúng với ý thầy không. Họ là những bạn trẻ rất thích phong thái ung dung tự tại của thầy, và đặc biệt là rất thích thú tu tập theo pháp hành mà thầy chỉ dạy. Nếu như trang web này có được những lời dạy cốt yếu của thầy được dịch sang tiếng Anh thì điều đó thật tuyệt vời. Con xin mạn phép thưa lại với thầy những điều các bạn ấy muốn thưa với thầy, xin thầy từ bi hứa khả. Chúng con thành kính tri ơn thầy.
2. Đây là câu hỏi của một bạn nhờ con hỏi thầy.
“Con thường nghe nói người tu tập pháp hành nào cũng phải có định. Từ khi nghe pháp của thầy, con làm gì cũng chú tâm vào việc đó, không nghĩ đến việc tiếp theo, con chỉ trọn vẹn với một việc đó thôi, xong rồi con mới qua việc khác. Con cũng ứng dụng y như thế với các suy nghĩ và cảm xúc của mình. Con thấy tâm rất yên và vắng lặng, trạng thái tâm như vậy có thể gọi là định không, thưa thầy. Định, theo lời dạy của thầy là gì và nó có khác với cái định của những người tu thiền khi không còn vọng tưởng không thầy? Con muốn hiểu về định trong pháp hành của thầy, xin thầy dạy thêm cho con thông suốt. Thành kính đảnh lễ và xin cảm ơn thầy.”
1) Cốt lõi pháp thiền thầy hướng dẫn phần lớn ở trong cuốn Sống Trong Thực Tại. Có lẽ là thầy sẽ nhờ người dịch cuốn sách này ra tiếng Anh rồi thầy sẽ hiệu đính lại. Câu hỏi về thiền định của bạn con cũng đã được nói rõ trong cuốn sách này. Có thể có một cách khác là các bạn cứ đọc cuốn sách đó rồi chỗ nào không hiểu hỏi thầy qua mục hỏi đáp cũng được. Thầy sẽ mở một mục tiếng Anh cho trang web này.
2) Trong Đạo Phật những yếu tố giới, định, tuệ hòa hợp với nhau thành một chứ không phải là những thành phần tách rời riêng biệt, tám yếu tố trong Bát Chánh Đạo cũng vậy. Giống như hydro và oxy hòa hợp thành nước vậy, nếu tách rời hai thành phần ấy ra thì chúng không thành nước được nữa. Khi thận trọng, chú tâm, quan sát tức trở về trọn vẹn trong sáng với thực tại thì ngay đó có giới định tuệ mà có giới định tuệ thì có chánh kiến, có chánh kiến thì có chánh tư duy, có chánh tư duy thì có chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, mà đã có 5 chánh trên thì chắc chắn tâm ổn định nên tất nhiên là có chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Nói cách khác trong Bát Chánh Đạo mỗi yếu tố luôn bao hàm những yếu tố kia. Trong thiền minh sát Vipassanā có 3 yếu tố dẫn đầu trong Bát Chánh Đạo đó là chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh kiến. Chánh kiến ở đây được thực hiện qua tỉnh giác. Khi 3 yếu tố này hòa hợp với nhau thì 5 yếu tố kia cũng cùng hiện hữu.
Chính khi con thận trọng chú tâm quan sát một động thái nơi thực tại thân-thọ-tâm-pháp thì thận trọng là giới, chú tâm là định và quan sát là tuệ. Thiếu một trong ba yếu tố thì 2 yếu tố kia cũng không thành. Định trong trường hợp này được gọi là sát-na định (khanika samādhi), tùy thời định (tadanga samādhi), hay tịch tịnh định (santo samādhi) tùy theo mỗi lúc và tính chất của nó. Định này mới là chánh định trong thiền minh sát. Trong Dīgha Nikāya 3/278 mô tả: “Định này làtịch tịnh, vi diệu, đạt tĩnh lặng, chứng nhất tánh, không điều kiện, không đối kháng, không trở ngại” (Ayam samādhi: santo, panīto, patipassaddhaladdho, ekodibhāvādhigato, na ca sasankhāra-niggayha-vāritavato’ti). Các loại định sắc giới, vô sắc giới chỉ gây trở ngại cho thiền minh sát, nếu không biết vượt qua, điều này đức Phật gọi là 10 phiền não chướng của thiền Vipassanā (Ánh sáng, hỷ, lạc, khinh an, trí quá nhạy, tin quá nhiều, tấn quá mạnh, xả quá mức, dục tốc sở đắc).
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy, xin Thầy cho con trình pháp:
Sau một thời gian dài quan sát, con chợt nhận ra những suy nghĩ về Pháp học cũng là vọng. Bỏ luôn vọng này thì có phải là chỗ Phật dạy: “Chánh Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp” đúng không Thầy? Nhiều lúc không có việc gì suy nghĩ, nhưng tâm luôn luôn khởi vọng, hết chuyện này đến chuyện khác, cũng chỉ là những chuyện hàng ngày mình gặp thôi. Ban đầu con còn bị nó lừa, bây giờ cũng còn, nhưng bắt đầu nhận ra được rồi Thầy ạ. Điều này làm con liên tưởng đến từ Lậu Hoặc – tâm liên tục tiết ra tư tưởng, suy nghĩ, cảm xúc… và nếu mình chấp đó là thật, nó liền quay trở lại ràng buộc mình, bắt mình hành động và suy nghĩ theo nó, hình thành nên các Kiết Sử, kéo dẫn chúng sinh trong cõi luân hồi.
Vậy nhìn tổng quát thì tất cả chúng sinh đều đang bị điều kiện hóa và bị chi phối như những con rối bởi các Lậu Hoặc và Kiết Sử này, và tất cả những điều này chính là điều được gọi là Nghiệp, đúng không Thầy?
Thấy và nghĩ đến đó làm con thấy rất xúc động và có vẻ như những điều Đức Phật giảng dù rất khó hiểu, khó tin, nhưng đều là sự thật.
Con đọc đi đọc lại vài lần về “16 tuệ minh sát”, nhưng con không thể xác định được mình đang ở giai đoạn nào. Thưa Thầy, mình cứ sống bình thường rồi khi nào “đến” sẽ biết vậy có được không?
Con xin trình pháp với Thầy như vậy. Nếu cái thấy và suy nghĩ của con còn chỗ nào sai, xin Thầy chỉ giúp cho con để con tiến tu. Con xin cám ơn Thầy và kính chúc Thầy an lạc.
Có quan sát nên con đang thấy ra dần cơ cấu hoạt động của sự tương quan giữa thân tâm và cảnh, thấy ra dần những che lấp, trói buộc của những ảo tưởng, vọng tâm. Hành động quan sát phải thật sự tự nhiên, vô tâm và giản dị thì mới thấy ra bản chất thật của pháp. Từ chánh pháp ở đây ám chỉ giáo pháp chân chính, nhưng dù chân chính đến đâu thì giáo pháp vẫn là phương tiệnngôn ngữ chế định để chỉ bày thực tánh pháp chứ không phải là thực tánh chân đế tự nhiên. Khi quan sát trực tiếp thực tại thân-tâm-cảnh thì ngôn từ trong pháp học dù đúng đắn tới đâu cũng phải bỏ mới thấy được thực tánh chân đế. Nếu không loại được ngôn ngữ chế định thì cái gọi là chánh pháp cũng thành độc hại, giống như dù thức ăn bổ dưỡng cách mấy mà không tiêu hóa thì vẫn sinh bệnh.
Có hai loại vọng tâm: Một là tập khí tồn động trong vô thức, khởi lên dưới hình thức vô nhân dị thục mà phân tâm học gọi là các khuynh hướng xung động. Chúng tự khởi lao xao, có khi bức xúc nhưng không tạo tác vì là những trạng thái hậu quả vô nhân. Nếu chạy theo chúng hay bị chúng sai sử, chi phối – do ưa thích hay sợ hãi – thì mới sinh ra tạo tác vọng nghiệp, còn nếu sáng suốt quan sát chúng thì chúng dễ dàng tan biến hoặc không gây ảnh hưởng gì cả. Hai là những thái độ tạo tác hữu nhân, đây mới là phản ứng tạo nghiệp. Những vọng khởi – sankhàra vô nhân – thường được tiếp sức bởi những phản ứng tạo tác – sankhàra hữu nhân, khi thiếu thiếu chánh niệm tỉnh giác, nhưng khi có thận trọng chú tâm quan sát một cách trọn vẹn trong sáng thì cả hai đều bị hóa giải.
Phần nhiều “16 tuệ minh sát” được diễn giải bằng những khái niệm ngôn từ (danh khái niệm) qua lý trí của những người chưa thực chứng, nên đã bị “vẽ rắn thêm chân” không ít, do đó con đọc mà không tẩu hỏa nhập ma là may lắm rồi! Thực ra những tuệ này rất đơn giản, chỉ vì người ta gán ghép vào quá nhiều khái niệm và quan niệm không xác thực khiến người đọc (hoặc nghe) tưởng quá cao xa không với tới được. Thực tế là nó nằm ngay trước mắt mà cứ kiếm tìm trong ảo tưởng xa vời, như tự vẽ ra diện mạo người trong mộng rồi đem đi tìm người thực vậy. Các tuệ tự đến khi tâm an nhiên trong sáng và nó bình dị đến độ con chỉ thấy và mỉm cười thôi, chứ không lời nào tả được. Nhiều người cũng tưởng đã thực chứng nhưng thật ra đã bị đánh lừa bởi những khái niệm biết trước từ kiến thức pháp học. Chỉ khi nào bặt dứt mọi khái niệm ngôn ngữ và mọi ý niệm tâm hành thì tuệ giác liền đến một cách rất tự nhiên, mà không cần đối chiếu với bất kỳ khuôn mẫu chế định nào.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy, con rất cám ơn câu trả lời của Thầy. Đúng là trong con có đủ cả hai điều Thầy phân tích. Con cũng nhận ra mình còn thiếu tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác. Con sẽ thường nhắc nhở mình hơn Thầy ạ.
Xem câu trả lời
Đúng đó con. Trong thiền Vipassanà thấy tức là hành chứ không phải hành là áp dụng theo một phương pháp để cố gắng làm gì với ý đồ đạt được điều mình mong muốn. Cái mong muốn luôn ở tương lai, trong khi cái được thấy chỉ ở ngay đây, trong hiện tại, như nó đang là. Thấy là phát hiện ra sự thật, thấy ra thực tánh của pháp đang vận hành tự nhiên ngay nơi thực tại thân-tâm-cảnh đúng với thời-vị-tính của nó mà thôi. Nhận ra điều này con sẽ không còn lăng xăng kiếm tìm và giải quyết theo cái ta luôn muốn khẳng định mình nữa.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Xin sư cho cháu hỏi:
Cháu thấy thân, thọ, tâm, pháp là một đối tượng cột tâm. Nếu trong thiền định ta cột tâm vào đề mục do tưởng sanh, thì ở đây ta cột tâm vào đối tượng thật trong hiện tại. Và khi cột tâm vào thân, thọ, tâm, pháp (gọi cách khác thận trọng, chú tâm, quan sát), lúc đó, tham, nóng nảy, si mê, phiền não không có. Nhưng liệu đó có phải là phương tiện? Cái gốc là mình buông xả cái “KHÔNG VÔ NGÔ của mình là chính?
Bởi vì thực tế chiêm nghiệm và trải nghiệm, theo thiển kiến của cháu: khả năng thận trọng, chú tâm, quan sát ở mức số 6, mà đối tượng khả năng cuốn hút ở mức số 4, 5 thì mình không theo nhưng nó ở mức 7, 8 thi minh bị nó cuốn theo. Mà mức độ cuốn hút của đối tượng thì vô chừng vô hạn. Cháu xin ý sư.
Mong ngày 28/6 gặp được sư!
Xem câu trả lời
Con hiểu như vậy còn máy móc lắm. Trên thực tế không phải vậy. Trong định thì còn có “cột” nhưng chỉ cột được bằng tướng do tưởng sinh chứ không thể cột trên đối tượng thực tánh. Trong tuệ thì hoàn toàn không theo cũng không cột gì cả, theo không thể được mà cột lại chẳng xong. Trí tuệ như mặt trời chiếu không theo con chim bay lượn cũng không cột vào cục đá đứng yên, thế mà cái gì xuất hiện đều thấy cả. Thận trọng chú tâm quan sát là cái dụng của giới định tuệ tự ứng ra khi cần thiết rồi thôi chứ không bao giờ theo hay cột vào đâu cả. Cũng vậy, buông nhưng không có gì để buông, vì nếu con có gì để buông tức con thấy “có” rồi sao gọi là “không vô ngã” được? Đó là lý do vì sao Thiền nói: “Việc đến thì tâm ứng hiện, việc đi thì tâm rỗng rang”. Con có nhận ra chân lý này không?
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy, con có người bạn đang học thiền với Thầy Tâm Đức tại Thiền Viện Vạn Hạnh ở Gò Vấp, bạn ấy nói ở đó dạy thiền Vipassana, dạy Tứ niệm xứ. Con có lên mạng coi thì Thiền Viện Vạn Hạnh thuộc phái Bắc tông, mà phái Bắc tông thì thường niệm Kinh Di Đà và có Thiền Tông, còn Nam tông mới dạy Vipassana, thiền quán, tứ niệm xứ. Mong thầy chỉ dạy cho con được rõ, con cám ơn Thầy.
Xem câu trả lời
Có thể quý thầy có học và hành thiền Vipassanà theo trường phái nào đó từ các nước Phật Giáo Nguyên Thuỷ nên đem ra chia sẻ với Phật tử. Hiện nay có rất nhiều Tăng Ni Phật tử theo Bắc Tông vẫn đi học thiền Vipassanà ở Ấn Độ, Thái Lan hoặc Myanmar nên điều đó không có gì lạ cả.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con xin đảnh lễ thầy!
Thưa thầy, con hành thiền Vipassana khoảng gần nữa năm rồi. Khoảng trước đây một tháng con thấy tâm mình như một hồ nước, bề mặt phẳng lặng không gợn sóng, nhưng ở dưới như có sóng ngầm vậy. Con thấy những phiền não của con chỉ tạm thời lắng xuống chờ cơ hội nổi dậy. Rồi thời gian gần đây, con thấy con rất dễ nóng giận, lại muốn nói nhiều. Những lúc như vậy con nhận biết cơn giận, đôi lúc con chưa kịp nhận biết thì cơn giận bùng phát ra mất rồi. Có phải con cần nâng chánh niệm không thầy? Nếu nâng chánh niệm thì con không biết phải làm sao cho tự nhiên chứ không phải là ngã?
Con chúc thầy sức khỏe!
Xem câu trả lời
Con hành Vipassanà theo kiểu ức chế mà nhiều người thường nhầm lẫn, do đó sự tinh tấn của con đã giúp con yên bằng cách dồn nén những tạp niệm vào trong tiềm thức bhavanga mà thôi. Và bây giờ con bắt đầu thấy nó bùng lên như lửa than ủ trong tro khi gặp duyên thì lập tức bùng cháy. Vipassanà có một nghĩa rất dễ hiểu là CHỈ THẤY THÔI chứ không buông xuôi mà cũng chẳng cần ức chế gì cả. Nếu con thấy được “bí quyết” này thì thật là dễ dàng và hiệu quả tức thời.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con kính chào thầy ạ! Thưa thầy, con là một thiền sinh thiền Vipassana cũng được nửa năm rồi. Khi hành thiền tâm con trở nên yên tĩnh và hành dễ hơn. Thưa thầy, con nên tiếp tục quan sát tất cả những gì xảy ra ở thân và tâm mình, hay tăng khả năng định mà vẫn hay biết những gì đang xảy ra? Nhiều lúc con thấy mình bắt đầu rơi vào trạng thái định mà không biết nên làm gì tiếp theo nữa. Con cảm ơn thầy nhiều ạ. Kính thầy mạnh khỏe ạ!
Xem câu trả lời
Chính vì con phát triển định nhiều quá nên mới không biết làm gì tiếp theo. Điều này chứng tỏ rằng con đã có “cái ta hành” trong đó, mà cái ta thì không thể bắt kịp sự vận hành của pháp. Nếu không có cái ta hành thì chỉ có danh thấy sắc, mà danh sắc thì luôn biến dịch vô thường nên khi con dừng lại (định) thì nó đã trôi qua, vì vậy mà con đã không biết làm gì tiếp theo nữa.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy,
Cách đây 30 năm con có nghe Cố Hòa Thượng Thích Huyền Vi nói Thiền còn có nghĩa là “tỉnh lự”, tức là “suy nghĩ trong sự yên tỉnh. Con thấy cũng có lý là vì thỉnh thoảng con cũng thường nghe quí Thầy nói trong lúc ngồi thiền thì khám phá ra cái này cái kia, v.v.. Theo như thiền Vipassana thì không có sự suy nghĩ trong đó, mà chỉ có sự theo dõi cái tâm đi đâu, làm gì, hoặc theo dõi hơi thở, v.v…
Con cũng có nghe nói thiền “chỉ” và thiền “quán”, như vậy Vipassana có phải là thiền “chỉ” hay không? Còn Đức Phật ngày xưa ngồi thiền định 49 ngày dưới cội bồ đề thì Ngài có suy nghĩ và thấy một cách sáng tỏ của vạn vật, rồi mới đại ngộ, và có phải Ngài áp dụng thiền “quán” hay không? Con kính xin Thầy giải thích thêm cho con hiểu rõ hơn. Kính chúc Thầy thân tâm mãi an lạc.
Xem câu trả lời
Câu hỏi của con chứng tỏ con chưa phân biệt được thiền định, thiền tuệ và thiền tỉnh lự. Do đó thầy định nghĩa lại cho con nắm rõ.
– Thiền định (chỉ) là gom tâm vào một đề mục để đạt đến nhất tâm (định xả)
– Thiền tuệ (quán) là phát triển trí tuệ để thấy thực tánh pháp.
– Thiền tỉnh lự là tư duy trong tỉnh thức (chánh tư duy)
Còn trong thiền Vipassana thì định tuệ không thể tách rời (định tuệ nhất như)