Câu hỏi:
Kính bạch sư! Làm thế nào để biết mình thiền đạt được kết quả?
Các chủ đề liên quan:
Danh sách các chủ đề phổ biến
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
1. Thấy ra trong hành động, nói năng, suy nghĩ những sai lầm như tham, sân, si, ngã mạn, tà kiến, ích kỷ, đồ kỵ, v.v…
2. Thấy ra mọi hoạt động của thân tâm chỉ là sự tương giao vận hành vô chủ giữa danh và sắc
3. Thấy ra mọi hiện tượng đều vô thường sinh diệt
4. Thấy ra nhận thức sai lầm và hữu vi tạo tác là nguyên nhân của khổ đau và trói buộc
5. Thấy ra trong sự vận hành của thân tâm và vạn pháp hoàn toàn không có cái ta
6. Thấy ra ý niệm “ta”, “của ta”, “tự ngã của ta” chỉ là ảo tưởng nên không còn ngã kiến, ngã thủ
7. Thấy ra mọi chế định tục đế đều không hoàn hảo nên không chấp trước vào bất cứ hình thức nào
8. Thấy ra trong thực tánh chân đế tánh biết và pháp đã tự hoàn hảo nên không còn phân vân nghi hoặc
9. Thấy ra không cần nương tựa và bám víu bất kỳ sở đắc nào nên không còn tham ái trở thành (không còn chỗ sinh y)
10. Thấy ra không có ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả nên không còn ngã mạn, trạo cử và vô minh.
Trong mười điều trên, con thấy được chừng nào thì chính là “đạt được kết quả” chừng đó.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Điều nào con hiểu được thì hiểu, điều nào chưa hiểu thì cứ để đó rồi đủ duyên sẽ hiểu, đừng nên cố hiểu bằng lý trí suy luận. Vì đây là thước đo trình độ tu chứng mà con. Có thể con không hiểu một phần vì trở ngại ngôn ngữ. Vậy để sư ông giải mã ngôn ngữ thôi còn có thực chứng được hay không lại là chuyện khác.
Điều 8 có nghĩa là khi đã thực chứng bản chất tối hậu của pháp (hay Thiền Tông gọi là kiến tánh) thì không còn nghi ngờ gì về chân lý nữa. Điều 9 có nghĩa là khi đã thực chứng chân lý tối hậu thì không còn nương tựa hay dính mắc bất cứ điều gì trên đời, không còn muốn hay cố gắng trở thành cái gì nữa cả (sinh y là chỗ bám víu để trở thành), chỉ sống tùy duyên thuận pháp vô ngã vị tha thôi. Điều 10 có nghĩa là không còn thấy mình là ta, là người, là chúng sanh hay là sinh mệnh gì cả, vì đã trở về với chân lý tối hậu thì làm sao còn ngã mạn, trạo cử và vô minh nữa.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
1) Chân lý có sẵn ở mỗi người và ở khắp mọi nơi nên đúng là ở đâu có giác ngộ ra chân lý thì ở đó có sự giải thoát, chứ không lệ thuộc vào Tôn giáo, và lại càng hoàn toàn không lệ thuộc vào tổ chức Tôn giáo. Nhưng nếu có bậc giác ngộ được chân lý mà chỉ rõ cho sự thật thì chúng ta thấy ra dễ hơn, chứ không phải bậc giác ngộ ấy ban cho chúng ta chân lý của ngài.
2) Có vô số điều đức Phật không nói ra, tuy nhiên những điều Ngài nói ra lại là nguyên lý cốt lõi của vạn pháp, do đó hễ thấy chân lý cốt lõi thì cũng có thể thấy ra tất cả pháp. Ví dụ khi Phật nói sắc, thanh, hương, vị, xúc là nói đến tất cả thế giới vật lý; khi nói mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, là ám chỉ toàn bộ thế giới sinh lý, và khi nói ý và đối tượng của ý là đề cập đến sự tương giao vận hành của tâm lý trong sinh lý và vật lý. Như vậy, không phải đức Phật nói một phần nhỏ của cái toàn thể mà Ngài nói tóm tắt chỗ tinh yếu nhất của cái toàn thể ấy. Cho nên người nào chỉ tin vào giáo lý đức Phật dạy thôi vì cho rằng đó là tất cả thì khó thấy được pháp giới mênh mông, còn người nào tưởng Phật dạy chưa đủ phải đi tìm thêm số lượng thì khó thấy được cốt lõi của chân lý là gì.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Có thể vì con học giáo lý quá nhiều, nên bây giờ bị ảnh hưởng “chân lý lý tưởng” trong Kinh Điển quá nặng, giống như người bị lạm thuốc, do đó đâm ra con sợ “chân lý thực tế”. Chân lý Kinh Điển dù lý tưởng cách mấy cũng chỉ là kiến thức, mà thường là đã bị bóp méo theo tầm nhận thức của người đời nên đã trở thành những quan niệm cứng nhắc. Vì vậy không thể giác ngộ giải thoát theo chân lý Kinh Điển mà chỉ có giác ngộ trong chân lý thực tế mà thôi. Chân lý thực tế nằm trong đời sống chứ không nằm trong Kinh Điển. Kinh Điển có thể giới thiệu chân lý, nhưng muốn thấy chân lý thì phải thấy nó trong thực tế. Đừng nghe Kinh Điển nói quá cao siêu mà bay bổng lên mây, hãy đối diện với thực tế con mới thấy ra bản chất thật của chính con và đời sống. Không trải nghiệm thực tế thì không có giác ngộ. Ngài Yassa là một công tử ăn chơi trác táng cho đến lúc chán ngán, thấy ra mọi vui thú đều vô nghĩa nên khi nghe đức Phật chỉ vào chỗ cốt lõi của sự thật thì ông thấy ngay và đã trở thành bậc Thánh. Tại sao chẳng tu ngày nào mà cũng thành Thánh? Vì ông chưa hề biết đến chân lý Kinh Điển bao giờ nhưng ông lại có thừa trải nghiệm sự thật trần trụi của cuộc đời, mà đó chính là chân lý thực tế. Hãy nhìn thẳng vào chính con, lắng nghe cảm xúc của mình và hãy nhớ rằng: “Cái đúng chỉ có từ cái sai chứ không từ cái đúng lý tưởng”. Nếu con không từng sai không bao giờ con biết được thế nào là đúng. Có thể vì hiểu lầm Kinh Điển lên án cái sai nên con không dám đối diện với cảm xúc thực của chính mình chăng? Điều quan trọng là con có học ra sự thật bằng chính sự trải nghiệm của mình hay không chứ đừng cả tin vào bất cứ điều gì hay bất cứ ai. Phật đã chẳng dạy như vậy với người dân xứ Kalama đó sao? Quá tin vào “chân lý lý tưởng” mà tránh né sự thật, đó là một mâu thuẫn vô cùng tai hại.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Con đặt câu hỏi không rõ ràng, lúc đầu con nói: “Trong đời sống thường ngày muốn có chánh niệm tỉnh giác viên mãn không gì khác phải có tinh tấn và nhẫn nhục Ba la mật. Và muốn có việc này thì phải giữ giới”. Tức là con đã xác định đường lối tu hành rồi. Sau đó con lại hỏi: “Phật tử chúng con hiện nay phải làm gì để sự thường biết rõ ràng luôn ở mãi trong tâm?” Phải chăng con muốn hỏi lý thuyết là như vậy còn thực hành thì phải làm sao?
Thực ra, tánh biết vốn là bản chất thường biết rõ ràng luôn có mặt trong tâm, nhưng vì bị cái ta ảo tưởng che lấp, trói buộc – bởi quá nhiều quy định để uốn nắn nó theo ý mình – nên tuy nó vẫn ở đó, vẫn hoạt động mà cái ta si mê không nhận ra được. Cái ta càng muốn dùng lý trí hạn hẹp của mình để trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục v.v… hầu duy trì sự thường biết rõ ràng chừng nào thì càng che lấp tánh biết tự nhiên rỗng lặng trong sáng và vô ngã chừng đó. Điều quan trọng là con nhận ra được điều này, chứ không phải cố gắng làm gì, vì càng làm càng không thấy nó.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiThầy thì thấy hoàn toàn ngược lại. Nếu các nhà khoa học làm việc một cách sáng suốt, định tĩnh, trong lành, luôn thận trọng, chú tâm, quan sát, không để cho vô minh ái dục xen vào, không bị thất niệm, tạp niệm, vọng niệm chi phối thì khoa học ngày nay đã tiến bộ hơn hàng ngàn hàng vạn lần hơn mà không đem lại đau khổ cho loài người, không gây tổn hại môi sinh, không làm mất cân bằng sinh thái trầm trọng như ngày nay. Nếu các bác sĩ, kỹ sư, các nhà chính trị, những người công nhân… cũng luôn chánh niệm tỉnh giác, thì đã không có chiến tranh, thảm sát, khủng bố, và những khổ đau, bất hạnh, khốn cùng. Nếu tất cả công dân trên thế giới đều sống đúng nguyên lý của cuộc sống thì quả địa cầu này đã biến thành thiên đàng từ lâu rồi. Vậy những xấu xa tội lỗi như chém giết, trộm cắp, tham nhũng… trên thế giới này do vô minh ái dục hay do sáng suốt, định tĩnh, trong lành? Những người sống lợi lạc quần sanh vô ngã vị tha như đức Phật, như các vị Bồ tát là do vô minh ái dục hay do giác ngộ giải thoát?
Sigmund Freud đã cảnh báo rằng: “Văn minh là hậu quả của tính dục”, vì vậy mới đưa đến cuộc khủng hoảng toàn cầu như ngày nay. Những nhà thông thái và có lương tâm cũng đang tiên liệu trái đất có thể bị hủy diệt một ngày không xa nếu con người cứ tiếp tục nền văn minh tính dục như thế này. Dục tự nó không sai, nhưng dục kết hợp với tham sân si thành dục ái, hữu ái, phi hữu ái mới là sai lầm trầm trọng. Dục được sử dụng đúng nguyên lý của pháp (thuận pháp) trở thành pháp Tứ Như Ý Túc trong Phật giáo, có thể thực hiện được vô số điều lợi lạc quần sanh mà không gieo đau thương phiền khổ. Nếu con có nhiều ý muốn (dục) lợi lạc quần sanh vô ngã vị tha thì con cứ làm càng nhiều càng tốt, có điều con phải đủ sáng suốt, định tĩnh, trong lành, đừng để vô minh ái dục sai khiến, nếu không con sẽ chỉ làm cho thiên hạ đau khổ thêm mà thôi.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lời