Con kính chào Thầy!
Thầy cho con hỏi. Con thấy tâm con hoặc là bị đồng nhất với những suy nghĩ lăng xăng hoặc là biết ‘mình đang là’ bằng lý trí.
Vậy có phải con nên thong thả biết bằng lý trí như vậy, đến một lúc nào đó tánh biết tự nhiên tới có đúng không ạ?
Con xin cảm ơn Thầy, chúc Thầy sức khỏe ạ!
Thực ra “tánh biết” luôn hiện diện đàng sau tất cả mọi “tướng biết” dưới hình thức lý trí, tình cảm hoặc bản năng (tâm vô nhân), nhưng ít ai nhận ra dù khi tướng biết sinh diệt theo đối tượng thì tánh biết vẫn không sinh diệt. Khi nào không có cái tôi muốn biết xen vào mà tâm vẫn biết thì đó chính là tánh biết, thế mà chúng ta cứ tưởng khi nào “tôi biết” mới gọi là biết, đây chính là cái biết lý trí. Đúng là cứ biết rồi sẽ biết đâu là tánh biết đâu là tướng biết vậy.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy!
Con học thận trọng, chú tâm, quan sát (thấy mọi việc như nó là), nhưng có một thời gian thỉnh thoảng có lúc tâm phản ứng liền khi thấy cảnh, ví dụ, nhìn thấy một người ăn mặc quần áo màu lòe loẹt, vẽ đầy phấn son…, tâm nó nói, “thấy ghê!” Sau liền lúc đó là có một cái tâm nói liền, “vô duyên, chuyện của người ta sao không nhìn như nó là, bông đỏ thì thấy bông đỏ, áo vàng thì thấy áo vàng, quần xanh thì thấy quần xanh,…” Những tâm này là tâm gì, xin thầy giảng cho con.
Đó gọi là “Nhất niệm khởi thiện ác dĩ phân”. Nên khi một tư tưởng khởi lên liền sinh ra đối thoại, bởi nếu không có đối thoại bản ngã chỉ chấp phiến diện một chiều. Cái gì thuộc về tương đối thì luôn có hai mặt để tương sinh tương khắc mà có sự chuyển hoá. Vì vậy điều đó không sao, tánh biết có thể hoá giải được tính nhị nguyên này của lý trí bằng cái thấy bất nhị.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Sư,
Kính tri ơn câu trả lời của Sư, con hiểu được một điều thật sâu sắc. Biết chỉ để biết, chẳng cần để làm gì mà cũng chẳng cần biết chính xác nó là cái gì, tên gọi sao, vì tánh biết nó đã tự biết trọn vẹn.
Học trò nhỏ Angulimala.
Thưa thầy con xin mạn phép hỏi thầy 1 vài câu, kính mong thầy trả lời cho con được thấu hiểu ạ.
1/ Thưa thầy quy luật nhân quả là có thật đúng không ạ? Con hay có điềm báo trước và đều đúng như những gì con được biết trước.
2/ Thưa thầy, khi các pháp vận hành, tánh biết chiếu soi, dù có tham sân si thì tánh biết vẫn không dính vào. Vậy thưa thầy cái quan sát đó là tánh biết, còn cái suy nghĩ cũng biết đó gọi là gì ạ? Tức là khi mọi chuyện diễn ra như bình thường thì cứ như bình thường chẳng có chút vướng bận vào, mà có vướng bận thì cũng không tài nào vượt trên tánh biết được. Vậy thưa thầy cái quan sát có dụng ý của ý thức một đối tượng với cái quan sát tự nhiên không dụng ý thì cái nào là thật cái nào là giả thưa thầy? Con xin cảm ơn thầy nhiều ạ.
Con nên đọc lại hai chương Thấy Biết Trong Sáng và Suy Nghĩ Chân Thực trong cuốn Sống Trong Thực Tại sẽ đầy đủ chi tiết về các loại biết và nghĩ hơn là câu trả lời vắn tắt sau đây:
1) Biết trước hay sau gì thì cũng đều theo luật nhân quả cả.
2) Cái biết nào cũng đúng cả nếu không xen cái ngã ảo tưởng vào.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy,
Con là Tịnh Minh, con xin trình pháp với thầy: Trong thấy chỉ có thấy, có phải cái thấy không bị đồng hoá bởi đối tượng? Con xin cám ơn thầy, chúc thầy luôn mạnh khoẻ.
1) Đối với tâm thấy: không bị khái niệm, tư tưởng, quan niệm chủ quan (của cái ngã ý thức) che lấp, không bị thời gian tâm lý xen vào hoặc không bị tham sân si v.v… chi phối, nên tâm đủ sáng suốt định tĩnh trong lành hoặc rỗng rang lặng lẽ trong sáng để thấy thực tánh chân đế.
2) Đối với đối tượng: không bị lệ thuộc vào hình sắc bên ngoài (vì hình sắc hiện khởi do nhiều điều kiện khách quan xung quanh chứ không phải nó như chính nó là), đối tượng phải tự nhiên không do sắp đặt của người thấy, đối tượng là pháp thực tánh chân đế chứ không phải pháp chế định tục đế.
Đối với nghe, ngửi, nếm, xúc và biết cũng đều như vậy.
(Trong câu hỏi của con, nếu con hiểu “không bị đồng hoá bởi đối tượng” có nghĩa là không bị đối tượng chi phối làm mất chánh niệm tỉnh giác thì đúng. Nhưng nếu con hiểu là có khái niệm phân biệt giữa “người thấy” và “đối tượng được thấy” thì sai, vì chủ yếu “trong thấy chỉ có thấy” là cái thấy thuần khiết trong đó không còn cái “tôi” thấy nữa).
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính Thưa Thầy.
Nếu con thấy tánh biết qua tưởng tri, xin thầy chỉ cho con biết đó là thực chứng hay lí giải? Và nếu đó là thực chứng, vậy có phải đó là con đường đi đến tuệ thấy được danh sắc không? Xin thầy từ bi chỉ dùm cho con. Con xin cám ơn thầy.
Biết qua tưởng tri hoặc thức tri đương nhiên là lý giải rồi. Biết như thế dù có đúng cũng chỉ mới là giải ngộ thôi chưa phải chứng ngộ. Chưa chứng ngộ thì chưa thể thấy được thực tánh của danh sắc. Chỉ sự thực chứng của tuệ tri – thấy trực tiếp không qua tư tưởng khái niệm nào – mới thấy được thực tánh của danh sắc. Khi thấy biết còn kèm theo tư tưởng từ kiến thức thì chưa phải kiến tịnh, càng chưa tới được tri kiến thanh tịnh, do đó chưa thể thấy thực tánh pháp. Trong thấy chỉ có thấy thôi, đừng muốn lý giải gì cả. Nếu con vẫn còn muốn lý giải thì khó thực chứng được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy, con xin được trình pháp, mong Thầy chỉ dạy thêm.
Con nhận thấy thân này bị chi phối bởi sinh, lão, bệnh, tử; còn tâm thì bị ràng buộc với thất tình lục dục. Duy tánh biết thì không bị ràng buộc gì cả, xuyên thời gian, không gian (ví dụ như con nhức răng, trải nghiêm lúc còn nhỏ không khác gì bây giờ). Tánh biết không hề thay đổi, không sinh tử. Người nào có thể luôn sống với tánh biết thì người đó có thể nói là thoát vòng sanh tử, như vậy có đúng không thưa Thầy?
Con cám ơn Thầy.
Đó là thực chứng hay lý giải? Nếu là thực chứng thì đúng, nếu là lý giải thì vẫn còn… “ngoài da”. Và nếu còn “ngoài da” thì không nên vội kết luận gì cả.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy, con hiểu như thế này không biết đúng hay sai. Kính nhờ Thầy cho con ý kiến.
Khi tâm mình biết ghi nhớ và chấp trì những tưởng thì đó là vọng tâm, cũng là thức của mình phải không thưa Thầy? Khi tâm không còn ghi nhớ và chấp trì những tưởng gì cả thì mới là chơn tâm, tức là nó như tấm gương vậy, cái gì đến thì nó hiện ảnh ra, cái gì không đến thì nó rỗng, trong suốt. nếu con tu tập thì cứ giữ cái tâm rỗng lặng, trong suốt đó, nhưng trong đời sống hàng ngày, có những việc con cần phải ghi nhớ. Như vậy, sự tu tập của con có bị “mâu thuẫn” không? Con còn kẹt vào chỗ này, xin Thầy chỉ cho con.
Con cám ơn Thầy.
Ghi nhớ các sự kiện xảy ra vào bhavanga là việc tự nhiên của tâm, không phải vọng đâu, nhưng chấp trì các tướng do tưởng sinh là thái độ có chủ tâm mới là vọng thức. Như vậy ghi nhớ tự nhiên khác với chấp trì cố ý, nên trong đời sống con ghi nhớ những sự việc trải qua vẫn không sai gì cả, miễn con không chấp giữ chúng là được.
Tâm rỗng lặng không có nghĩa là không nhớ gì mà là không bị gì chi phối, ràng buộc. Tâm càng rỗng lặng trí nhớ càng tốt, nhưng tâm chấp thủ thì chỉ nhớ những điều nó tuyển chọn một cách chủ quan mà thôi. Việc đến, tâm ứng hiện; việc đi, tâm rỗng rang là tốt, nhưng rỗng rang không có nghĩa là rỗng không (không có gì) mà là thái độ không dính mắc vào sở tri sở đắc nào cả. Ví như người không có tiền có thể vẫn chấp tiền bạc, nhưng người có nhiều tiền có khi lại không chấp, vậy chấp hay không là ở thái độ chứ không phải ở chỗ có hay không. Con không nên cố giữ cái tâm “rỗng lặng trong suốt”, vì như thế là chấp không. Rỗng lặng trong sáng thật sự thì có thể có hay nhớ tất cả mà không chấp gì cả.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy,
Con có thắc mắc xin Thầy giải nghi cho con. Vốn là giờ não của con ít hoạt động nên con dễ quên lắm Thầy. Nhưng song song bên cạnh con thấy tâm con rỗng rang và trực giác con nhạy bén hơn. Thế thì não có chức năng ghi nhớ thông tin (thân – tục đế), còn tâm tự soi sáng rỗng rang hay nhạy bén (tánh biết – chân đế) là 2 sự khác nhau nhưng giúp tương giao và học hỏi phải không thưa Thầy? Mỗi thứ có những nhiệm vụ hoặc chức năng riêng của nó đúng không thưa Thầy? Như thế khi não suy nhược hoặc teo hoặc chết thì tánh biết vẫn có thể làm việc độc lập soi sáng dưới dạng hữu thức hoặc vô thức phải không Thầy? Điều này được thí dụ cụ thể như người sống đời sống thực vật, đang hấp hối, tình trạng mê man bất tỉnh hoặc đã chết lâm sàng phải không thưa Thầy? Khi xưa con không nhận ra não và tánh biết như thế này. Con xin Thầy giải nghi dùm con. Con cám ơn Thầy.
Não phải hoạt động theo trực giác, não trái ghi nhớ và xử lý thông tin do não phải ghi nhận. Tiểu não là gạch nối giữa hai hoạt động của não phải và trái. Nếu phần nào của não bị tổn thương thì khả năng hoạt động của phần đó bị giới hạn hoặc ngưng hoạt động thôi, thí dụ não trái yếu thì sự ghi nhớ hoặc xử lý theo lý trí kém, nhưng não phải tốt thì trực giác vẫn bén nhạy. Nếu cả hai bị tổn thương thì mới rơi vào tình trạng hôn mê. Tuy nhiên, khi hôn mê lâm sàng hoặc khi ngủ, tánh biết vẫn hoạt động dưới hình thức những phản ứng có tính bản năng hoặc vô thức.
Muốn não lành mạnh thì cần có cả động lẫn tịnh. Hoạt động trí óc giúp trí nhớ của não tốt hơn nhưng nếu động quá tải sẽ sinh căng thẳng và dễ quên, do đó cần biết thư giãn buông xả để tịnh quân bình với động. Nhưng nếu tịnh nhiều quá làm cho não trái không hoạt động khiến dễ mất trí nhớ và trực giác cũng yếu đi, nên đức Phật dạy định nhiều quá sinh hôn trầm, thụ động. Nếu biết động và tịnh có chừng mực trong thận trọng, chú tâm, quan sát thì sự quân bình của tâm sẽ được lập lại và phát triển được cả mặt lý trí lẫn trực giác.