Câu hỏi:
Kính bạch Thầy! Khi ngồi thiền hay làm việc gì con hay nhìn vào tâm mình xem nó như thế nào, có tham sân si ở đó không. Đây là sự tu tập hằng ngày của con. Kính mong Thầy từ bi chỉ dạy. Tri ân Thầy!
Các chủ đề liên quan:
Danh sách các chủ đề phổ biến
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Đó gọi là niệm Tâm hoặc niệm Pháp. Khi tâm có tham biết có tham v.v… gọi là niệm tâm. Khi thấy tham v.v…. sinh diệt thế nào, che lấp hay trói buộc ra sao đó là niệm Pháp. Niệm Tâm, niệm Pháp có thể trừ được tà kiến về Ta, của Ta, Tự ngã của Ta. Tuy nhiên đừng quá để ý đến Tâm, mà nên tự nhiên để thấy toàn diện Thân, Thọ, Tâm hay Pháp tuỳ lúc tuỳ duyên, tuỳ đối tượng đang là gì.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiĐó không phải là lời Phật mà là lời của người dàn dựng bộ phim hiểu lời Phật theo cách anh ta nghĩ. Trong các bộ phim về cuộc đời đức Phật, những vấn đề ứng xử trong tục đế biểu hiện lòng từ bi hỷ xả chẳng hạn may ra còn diễn xuất được, nhưng những vấn đề thuộc chân đế thì hầu hết bị hiểu sai. Hiểu như lời con trích dẫn tức cho rằng trong mỗi người có hai phần, một phần là thân và ý (tiểu ngã) không thật sự là Ta vì nó có sinh có tử, còn một phần thật sự là Ta (đại ngã) thì không sinh và không bao giờ chết. Hoá ra một bên chấp tiểu ngã là đoạn (đoạn kiến), một bên chấp đại ngã là thường (thường kiến). Đó là tư tưởng của Bà-la-môn, không phải lời Phật dạy.
Phật dạy không có Ta, không có của Ta, và luôn cả không có tự ngã của Ta trong tất cả pháp dù là tánh, tướng, thể hay dụng; dù là thân, thọ, tâm hay pháp; dù là 6 căn, sáu trần, sáu thức; dù là thấy, nghe, xúc hay biết; dù là sinh tử, Niết-bản hay Phật tánh… đơn giản chỉ vì khái niệm Ta, của Ta, tự ngã của Ta đều chỉ là ảo tưởng, không có thật. Vô ngã mà đức Phật dạy là nói về thái độ nhận thức (kiến) chứ không phải ám chỉ sự vật (mà cho là thường hay đoạn, sinh hay tử).
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiSādhu lành thay! Tuyệt vời! Chúc mừng con!
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lời– Làm chủ hay không làm chủ chỉ là cách nói thôi. Con cần thực chứng mới hiểu thấu sự thật đó. Khi phải dùng ngôn ngữ thì dù Phật nói cũng cần phải “được ý quên lời” mới được.
– Nói “Không còn hiện hữu” là rơi vào đoạn kiến. Nói “Còn hiện hữu” là rơi vào thường kiến. Đừng đem khái niệm còn và không còn của lý trí để gán cho Niết-bàn dù hữu dư hay vô dư.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiĐúng lắm con, nhưng điều này phải thực chứng mới đúng còn chỉ hiểu thôi rất dễ biến thành thường kiến.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lời1) Vì linh hồn được định nghĩa là thường tồn bất biến nên Phật giáo nguyên thuỷ xem đó là chấp thường hay thường kiến, không đúng với sự thật. Thay vì chủ trương linh hồn bất biến, Phật giáo nói mỗi chúng sinh hữu tình đều có tâm. Tuy tánh của tâm vốn không sinh, không diệt, không thường, không đoạn… nhưng tướng của tâm qua 6 thức thì lại sinh diệt vô thường tuỳ theo duyên nghiệp của mỗi người nên mới có thể tái sinh dưới nhiều dạng tâm khác nhau trong 3 cõi 6 đường gọi là thức tái sinh, chứ không thường tồn bất biến. Hồi hướng phước thì thức tái sinh vẫn cảm nhận được, nhất là khi tái sinh trong cõi âm như Peta và Asura.
2) Nghiệp quá khứ tạo ra cái gọi là số phận, trong Phật giáo gọi đó là sinh nghiệp, sinh mệnh hay nghiệp mệnh, tức nội dung kiếp sống của mỗi chúng sinh. Số phận hiểu theo thuyết định mệnh thì không thay đổi, tiền định do một ngoại lực siêu hình, gọi là tạo hoá. Còn Phật giáo thấy rằng sinh nghiệp là hậu quả của nghiệp quá khứ nhưng có thể thay đổi tuỳ thái độ nhận thức và hành vi hiện tại chứ không bất biến. Thí dụ nếu trước kia một học sinh biếng học nên hậu quả là bị điểm thấp, nhưng em có thể thay đổi bằng cách siêng năng học tập thì điểm sẽ cao. Mục đích của nghiệp chính là sự chuyển hoá nhận thức và hành vi ngày càng hoàn hảo.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiCâu này mang tính bản thể luận mà triết học duy tâm thường nêu ra, không có trong kinh Nguyên Thuỷ. Đức Phật không lý luận, Ngài chỉ thẳng vào sự thật đang là để người nghe có thể thấy ngay mà giác ngộ. Nên cảnh giác, đừng để rơi vào cái bẫy bản thể luận thường kiến mà các Tổ về sau đã biến Đạo Phật thành triết học và vô tình đẩy Phật giáo vào thời mạt pháp.
Trong bài kệ Pháp Cú số 1&2 đức Phật dạy: “Trong các pháp, tâm ý dẫn đầu, làm chủ và tạo tác tất cả…” nhưng tạo tác tất cả các pháp ở đây là ý nói tạo tác nghiệp thiện ác từ các tâm sở của tâm, chứ không phải tâm là bản thể tạo ra tất cả thế giới vi trần. Pháp có thể được thấy qua tâm, nếu tâm rỗng lặng trong sáng thì thấy thực tánh, nếu tâm đầy khái niệm thì thấy tướng chế định thôi, chứ không phải tâm sinh ra vũ trụ vạn vật.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lời1) Thấy, nghe, xúc chạm và ý thức đều là tướng biết xuất phát từ tánh biết. Sáu tướng biết do duyên sinh nên có sinh thì có diệt, còn tánh biết vô sinh nên không diệt (nhưng không phải thường hằng theo khái niệm thường kiến). Nếu không như vậy khi tướng biết diệt rồi y cứ vào đâu để sinh lại khi gặp duyên khác? Thí dụ như khi ngủ hoặc bất tỉnh thì 6 tướng biết “diệt” về đâu và khi tỉnh dậy y cứ vào đâu để thấy nghe trở lại?
2) Thực ra có 3 tiến trình nhận thức: a) Nhận thức qua 5 giác quan, b) Nhận thức qua ý thức khái niệm hoá, c) Nhận thức qua ý thức xử lý khái niệm. Con nói đúng 2 loại tiến trình nhận thức đầu.
3) Con hành như vậy mới đúng là thiền vipassanā. Nhiều hành giả không biết điều này nên cố gắng biết bằng ý thức qua cố ý tìm kiếm, theo dõi, ghi nhận liên tục mà họ tưởng là tích cực miên mật, thực ra đó chỉ là ý chí của bản ngã lý trí mà thôi.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiTất nhiên là rơi vào cả đoạn kiến lẫn thường kiến. Người lệ thuộc vào lý tưởng vì không thấy rằng mục đích sống ở ngay nơi sự sống đang là. Trở về trọn vẹn với thực tại thì thấy ra lý tưởng đã ở đó tự bao giờ.