Câu hỏi:
Con xin đảnh lễ sư. Thưa sư cho con hỏi, đề mục hơi thở vô, hơi thở ra và phồng xẹp khác nhau như thế nào? Con xin tri ân sư.
Các chủ đề liên quan:
Danh sách các chủ đề phổ biến
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Người hành đề mục thở vô thở ra thường nhầm lẫn với luyện khí công Trung Hoa hoặc yoga Ấn Độ và họ tập chú ý ghi nhận cảm giác ở cửa mũi vùng huyệt nhân trung giữa môi trên, hoặc để ý đến huyệt khí hải dưới rốn ở vùng bụng. Hai trường phái này đều thuộc về thiền định vì chủ yếu là họ mượn những vùng nhân trung hoặc khí hải (huyệt trọng yếu trong cơ thể) để điều thân, điều khí và điều ý.
Khi hành giả tập trung sự chú ý vào khái niệm hơi thở và biến khái niệm này thành đối tượng thiền tướng (nimitta) để định tâm thì người đó đang thực tập thiền định (Jhàna, samàdhi). Trong thiền định sự tập trung chú ý này được gọi là tầm (vitakka) và tứ (vicàra). Sau đó nếu sự tập trung tư tưởng thành công thì hỷ (pìti), lạc (sukha) và nhất tâm (ekaggatà) sẽ phát sinh và đạt được định an chỉ (appanà). Nếu định này đạt được do ly dục ly bất thiện pháp một cách tự nhiên vô ngã thì đó là chánh định. Nhưng nếu đạt được do tham muốn sở đắc và ý chí dụng công của bản ngã thì vẫn là ngoại định (nói ngoại định tức không phải chánh định nhưng vẫn có thể tốt nên không nói là tà định).
Khi hành giả trở về trọn vẹn soi sáng một cách trực tiếp, khách quan và trung thực toàn bộ động thái thở vô thở ra đang diễn tiến trên thân tự nhiên như nó là, không sắp đặt, không qua khái niệm chế định về hơi thở (như định dạng ở mũi hay ở bụng v.v…) thì người đó đang thực hành minh sát tuệ (vipassanà). Trong tuệ minh sát, sự trở về trọn vẹn soi sáng động thái thở tự nhiên này được gọi là tinh tấn (àtàpì), chánh niệm (satimà), tỉnh giác (sampajàna), trong đó không có tham ưu (abhijjhà domanassa), không nương tựa (anissito), không bám víu bất kỳ điều gì (na kiñci upadiyati) do đó không có sở đắc mà chỉ có thấy ra bản chất sinh diệt tự nhiên của toàn bộ động thái thở vô thở ra đang diễn tiến trên thân như nó là.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiThực ra đối tượng thở hay đi chỉ là yếu tố phụ, tâm thấy biết sự kiện thở hay đi mới là chính yếu. Nếu tâm con có tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác đúng mức thì tất cả thực tánh pháp tự hiển lộ, nhưng khi con khởi tâm tìm kiếm chi ly thì ý niệm của bản ngã lý trí đã xen vào rồi làm sao thấy được thực tánh? Con chỉ cần thấy biết với tâm rỗng lặng trong sáng là được, còn lúc đó đối tượng nào đến thì chính tâm rỗng lặng trong sáng sẽ tự thấy thực tánh chứ không phải cái ta lý trí đầy ắp khái niệm thấy.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiCâu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiCâu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiTrong một câu hỏi tương tự đặt ra trước đây, thầy đã trả lời như sau:
Vì “hơi thở” chỉ là một khái niệm chế định không có thực tánh nên chỉ có thể làm đối tượng cho thiền định, còn đối tượng thiền tuệ phải là thực tánh vì vậy phải lấy thực tánh của trạng thái thở làm đối tượng. Trạng thái thở là thực trạng diễn biến của động thái thở, nói cách khác là tình trạng đang diễn ra của động tác thở.
Như vậy, hơi thở là một tướng khái niệm mà chúng ta chỉ có thể tưởng tới chứ không thể thấy, biết hay xúc chạm được. Những gì có thể trực tiếp thấy biết hay xúc chạm được là thực tánh của đất, nước, gió, lửa nơi trạng thái thở (pháp thực tánh), chứ không phải tướng khái niệm của hơi thở (pháp chế định).
Thực ra thầy có định nghĩa gì mà con không thực chứng được thì cũng chỉ có thể “hiểu” qua lý trí thôi. Hãy thực nghiệm để khám phá đâu là pháp thực tánh nơi trạng thái thở, đâu chỉ là tướng khái niệm của hơi thở.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiCâu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiDù nhiều người theo kinh này mà rèn luyện thì cũng đạt được nhiều kinh nghiệm lợi ích, nhưng tất nhiên đó không phải là mục đích của bài kinh. Bài kinh này có tên là “Nhập tức xuất tức niệm” (Anapanassati) tức quán niệm những trạng thái thở vô thở ra, trong đó có câu “Vị ấy học” (sikkhati) chứ không phải “Vị ấy tập” như đã được dịch. Tập hay rèn luyện là lặp đi lặp lại cho thuần thục một cách có chủ ý (có chủ quan năng niệm sở niệm), còn học theo cách quán niệm này là quan sát minh bạch và trọn vẹn bằng chánh niệm tỉnh giác hay với tâm rỗng lặng trong sáng tự nhiên (không có chủ quan năng sở).
Nhiều đạo sĩ trước khi theo đức Phật đã có sẵn sở đắc thiền định nhờ rèn luyện hơi thở và bị kẹt trong đó không thể vào được thực tánh chân đế, vì thiền định ngoại đạo dựa trên tưởng mà thành, do đó để hóa giải cho họ sự vướng mắc này đức Phật dạy pháp quán niệm trạng thái thở vô thở ra mà trước đây họ đã hành để đạt định. Trong pháp Anapanassati này họ phải học bằng cách quan sát minh bạch mọi trạng thái diễn biến của định mà họ trải qua để soi sáng và hóa giải sự bám víu trong định đó (ba đoạn trên) và cuối cùng đưa tâm họ vào trí tuệ quán chiếu thấy rõ thực tánh chân đế và giải thoát giác ngộ (đoạn cuối cùng của bài kinh).
Như vậy đây hoàn toàn không phải là rèn luyện mà là soi chiếu để phá mê chấp trong trạng thái sở đắc thiền định và mở ra tầm nhìn của trí tuệ không còn chỗ bám trụ (Anissito anupadiyati).
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Đơn giản là con đừng theo dõi hơi thở nữa. Thiền không phải là trói buộc tâm vào một đối tượng nào, mà là không buộc tâm vào bất cứ điều gì cả (na kinci loke upadiyati), tâm không bị trói buộc đó là tâm thiền. Biết mình đang thở với tập trung vào hơi thở là hai thái độ hoàn toàn khác nhau. Mục đích của việc biết mình đang thở là để không quên mình trong thất niệm, tạp niệm hay vọng niệm, không để tâm lang thang hay lăng xăng tìm kiếm bên ngoài chứ không phải để buộc tâm vào hơi thở như cố gắng tập trung vì một tham vọng khác.
Tạm thời con quên việc theo dõi hơi thở đi mà nên biết mình đang đi, đứng, ngồi, nằm hay đang làm một động tác nào đó như nhai cơm, uống nước, rửa mặt v.v… như vậy con vẫn không quên mình trong thất niệm như khi con biết mình đang thở, không khác nhau gì cả. Đức Phật dạy tinh tấn chánh niệm tỉnh giác như vậy chính là để buông ra mọi dính mắc bên trong lẫn bên ngoài, để tâm ung dung tự tại chứ không phải để trói buộc tâm mình. Khi con thay đổi thái độ tu tập như vậy nếu có gì còn vướng mắc thì cứ hỏi ngay đừng để sai lầm lâu ngày thành thói quen quán tính.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiKhi con niệm Phật mà thấy hơi thở rõ ràng tự nhiên, như vậy tốt hơn là con quan sát hơi thở ở điểm xúc chạm theo cách thiền định, vì vậy con không nên bỏ niệm Phật. Niệm Phật tốt hơn là định an chỉ trong việc giúp con thực hành thiền tuệ. Có thể khi con theo dõi hơi thở vô tình làm cho hơi thở mất tự nhiên và đưa đến tình trạng đau nhói. Nhưng cũng có thể việc đau nhói không liên quan gì đến niệm hơi thở. Con hãy tự chiêm nghiệm để biết rõ đau nhói đó phát xuất từ đâu.