Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Thầy, lần thứ hai, lần thứ ba.
Thưa thầy, con mong Thầy tư bi giảng dạy cho con nguyên lý thực hành trì chú Đại Bi (Bắc Tông) theo phương pháp thiền nguyên thủy ạ? Con cám ơn Thầy.
Thưa Thầy, theo kinh tạng Nguyên thủy chú Đại bi được hiểu như thế nào ạ? Con cám ơn Thầy.
Xem câu trả lời
Trong Phật Giáo Nguyên Thuỷ có kinh Mahà Karuniko (Đại Bi Kinh) và kinh Mettà Karanìya (Ưng Hành Từ Kinh). Con nên học thuộc 2 bài kinh đó để đọc tụng hàng ngày và nhất là hiểu nghĩa kinh cho rõ để hành theo. Khi con đã hành được như kinh dạy thì không cần đọc tụng nữa cũng được, vì kinh, chú chỉ là phương tiện để chỉ bày cho chúng ta đến với Sự Thật, khi đã thấy Sự Thật thì không cần phương tiện nữa, nên Phật mới dạy: “Pháp như thuyền đưa người qua sông, pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp”.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con thưa thầy! Con hiện đang là sinh viên năm 3 của trường đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn tp Hồ Chí Minh. Con đang làm một bài tiểu luận về Nam Bộ, con quyết định chọn đề tài nghiên cứu về Phật giáo Nguyên Thuỷ, con có đến chùa Bửu Long, ngôi chùa đẹp thật thầy ạ! Con mới chỉ tìm hiểu và biết chút ít về Phật giáo Nam tông của người Khmer. Và bây giờ con mới được biết đến Phật giáo Nguyên thủy mà hiện chùa Bửu Long đang có. Con muốn tìm hiểu hơn nữa về Phật giáo này ở những khía cạnh: sự hình thành và phát triển của tôn giáo, cũng như những điều cơ bản nhất về Phật giáo này ạ. Con kiến thức còn hạn chế, mong thầy giúp đỡ con để con hoàn thành tốt bài tập này.
Con cám ơn thầy! Chúc thầy sức khỏe!
Xem câu trả lời
Có lẽ con nên đọc cuốn Thắp Lửa Tâm Linh của sư Giới Đức để lấy cảm hứng rồi sau qua đó tìm tài liệu lịch sử để xác minh các thời kỳ phát triển Phật Giáo Nguyên Thuỷ Việt Nam là cách dễ dàng cho con nhất.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy, con hiếu kỳ muốn biết tại sao những vị tu nữ trong Phật giáo nguyên thủy lại không được đắp y giống như những vị Tăng? Và họ mặc nhiều màu khác nhau như màu hồng, trắng, vàng nâu v.v… Như vậy có mâu thuẫn với thời kỳ Phật còn tại thế Ni được đắp y không? Phật giáo nguyên thủy sao lại có điểm khác biệt này? Kính xin Thầy giải thích cho con rõ ạ. Con cám ơn Thầy.
Xem câu trả lời
Vì họ là tu nữ chứ không phải Sa-di-ni hay Tỳ-kheo-ni nên chưa được mặc y. Hiện nay bên Nam Tông cũng đã có một số nước có Sa-di-ni và Tỳ-kheo-ni nên đã có mặc y.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy, cho con hỏi trong Phật giáo nguyên thủy có làm các lễ cầu an, cúng sao giải hạn không ạ? Con từng đọc trong kinh nào đó có nói rằng Đức Phât nói những việc như: xem tướng, cúng sao giải hạn… đều thuộc vào tà mạng. Bởi nhiều chùa cũng đang thực hiện việc này, khiến con phân vân không biết đúng sai như thế nào? Con xin cảm ơn Thầy!
Xem câu trả lời
Trong Phật giáo Nguyên Thủy chỉ có tụng Kinh Paritta (Kinh An Lành) để chúc phúc cho Phật tử chứ không có cúng sao giải hạn hay xem tướng bói toán…
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy!
Hôm qua con con có câu hỏi cho Thầy, nhưng do vì con gởi câu hỏi dài quá nên Thầy chưa giải đáp phần mà con thật sự thắc mắc & muốn hỏi.
Hôm nay con xin gởi lại, kính mong Thầy hoan hỷ trả lời cho con rõ ạ!
Câu hỏi của con là: Bên Phật giáo Nam tông chỉ dùng hương hoa cúng dường Đức Phật để tỏ lòng thành kính chứ không cúng vật thực. Vậy là bên Phật giáo Nam tông không cúng nước và trái cây, hoa quả để cúng hả Thầy? Chỉ thắp nhang, đèn và hoa tươi thôi, đúng không thưa Thầy?
Và con xin hỏi thêm 1 điều nữa là bên Nam tông thì vào ngày 23 tháng Chạp có cúng đưa ông Táo chầu trời, rồi 25 tháng Chạp cúng đưa Thần, Thánh, Tiên, Phật, Gia tiên trở về cung cõi (cái này gọi là Lễ Chạp, hay còn gọi là cúng Tất Niên), rồi đến trưa 30 tháng Chạp thì lại rước Ông Táo, Gia tiên về. Rồi tối 30 thì lại cúng Giao thừa ngoài trời để thỉnh Quan Đương Niên Hành Khiển (đưa tiễn Quan Đương Niên cai quản năm cũ, đón Quan Đương niên cai quản năm mới), cúng Chư Thiên, rồi cúng Giao Thừa trong nhà – thường là bàn thờ Phật & bàn thờ Gia tiên trong nhà, rồi lại cúng Cơm Canh cho Ông Bà trong 3 ngày Tết, đến chiều mồng 3 Tết thì lại cúng đưa Ông Bà, rồi mồng 9 cúng vía Trời (Ngọc Hoàng), mồng 10 vía Đất (cúng Thần Tài-Thổ Địa). Xin hỏi Thầy mấy cái con vừa kể trên có đúng với Chánh pháp không? 1 người Phật tử theo đúng Chánh pháp có nên làm như vậy không?
Thành thật cảm ơn Thầy!
1) Phật giáo Nam Tông không cúng Phật bằng cơm canh bánh trái gì cả, những thứ này chỉ cúng chư Tăng thôi. Thậm chí nhiều chùa chư Tăng cũng chỉ cúng hoa thôi chứ không thắp cả hương và đèn nữa, ngoại trừ đèn để thắp sáng, hương hoa đèn là do người dân đem tới cúng và vì thấy cúng như vậy để tỏ lòng tôn kính Phật thì cũng được, còn cơm canh bánh trái thì Phật có ăn đâu mà cúng!
2) Phật giáo Nam tông cũng không cúng thiên thần quỷ vật theo các lễ như con kể trên. Ngay cả Phật giáo Phất Triển thì vẫn nói “Quy y Phật không quy y thiên thần quỷ vật” rồi mà. Cúng như vậy là do Phật giáo bị quần chúng hóa theo tín ngưỡng nhân gian mà thôi.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Nam-mô A-di-đà Phật! Kính bạch thầy, cho con hỏi thiền Nguyên thủy khác với Thiền tông như thế nào?
Xem câu trả lời
Chỉ khác bên ngoài hình thức không khác bên trong nội dung. Cả hai đều có mục đích thấy tánh như nhau. Sau Lục Tổ Thiền Tông chia làm 5 phái, mỗi phái có biện pháp thực hiện thấy tánh riêng nhưng vẫn cùng chung nguyên lý. Con xem cuốn Thiền Phật Giáo: Nhuyên Thủy và Phát Triển trong Thư Viện để hiểu rõ thêm.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy, con đã có duyên may được đến nghe Thầy giảng Thiền (Khóa thứ 5 tại Tổ đình Bửu Long) vừa qua, con vô cùng cảm ơn Thầy đã khai thị cho con một số không ít những vấn đề về Phật pháp. Nay con có một thắc mắc này, xin Thầy vui lòng chỉ bảo, giải thích giúp con:
Thưa Thầy, đọc qua một số kinh sách Bắc Tông, con thấy các vị Bồ-tát thường có hạnh nguyện: “Khi nào chúng sinh chưa được độ tận thì ta chưa thành Phật”, hoặc khi đã thành Phật thì nguyện rằng: “Khi nào chúng sinh còn khổ thì ta còn trở lại thế giới Sa-bà này để độ chúng sinh qua bến giác”. Thưa Thầy, theo con hiểu thì khi những hạnh lành (Bồ-tát) hay tánh biết (Tánh Giác, Phật) nơi ta khai mở thì ta sẽ có từ bi, trí tuệ… tương ứng, và vấn đề hạnh nguyện chỉ là một cách diễn dịch của người đời bằng khái niệm hình tượng, ngôn từ mà thôi. Hoặc những người còn mê muội như chúng con, trên con đường học Phật, cần nói như vậy để khuyến khích phát triển hạnh nguyện hầu tiến dần đến khai mở tánh biết và hạnh lành. Còn nếu nhìn bằng nhãn quan nhị nguyên hoặc xét từ góc độ của quy luật âm dương thái cực, thì chẳng lẽ Phật và Bồ-tát cũng vẫn còn luân hồi sinh tử, vì mọi sự vật hiện tượng khi đã đạt mức cực dương thì sẽ chuyển sang âm: giống như khi ta đã đạt được quả vị Phật rồi thì lại trở xuống làm chúng sinh. Nói cách khác, khi nào còn “Ma” thì còn “Phật” (mà cuộc sống thì chẳng bao giờ hết “Ma” nên nếu hiểu thế giới theo kiểu nhị nguyên đối đãi: luôn có sai có đúng, có Ma có Phật, có yêu có ghét…), và chỉ khi nào không còn bản ngã tham sân si thì mới thấy thế giới như thực tánh, không còn thấy Ma thấy Phật nữa mà thôi.
Con xin tóm lại, điều con muốn hỏi là phải chăng từ Phật trong quan niệm này là chỉ cho tánh giác và Bồ-tát là ám chỉ cho hạnh từ bi, trí tuệ… Khi khai mở được tánh biết(Phật) và các hạnh làmh (Bồ-tát) đến tột độ thì chỉ thấy từ bi, trí tuệ… không còn thấy ma thấy Phật, thấy sinh thấy tử nữa. Chứ Phật và Bồ tát nếu còn thị hiện một cách hữu vi như chúng sinh thì vẫn luân hồi sinh tử như thường, có phải không ạ?
Thành kính cảm ơn Thầy.
Ngọc Thu
Giáo lý nguyên thủy của đức Phật hầu như không đề cập đến những vấn đề Phật và Bồ-tát thị hiện cứu độ chúng sanh theo kiểu đó. Quan niệm này mãi đến 600 năm sau đức Phật nhập diệt mới phát sinh trong các Hệ Phái Phật Giáo phát triển. Đến hơn 1.100 năm sau đức Phật Niết-bàn, Thiền Tông Đông Độ ra đời, vị Tổ thứ 6 là Ngài Huệ Năng đã xác định lại “độ chúng sanh” là vượt qua vô số phiền não phát sinh trong tâm (Tự tánh chúng sanh vô biên thệ nguyện độ). Bởi vì một số Luận Phái phát triển đã biến Phật Pháp thành triết học và tín ngưỡng để đáp ứng yêu cầu sở tri và sở đắc của con người, hơn là chú tâm vào việc hóa giải những khổ đau bức thiết trong hiện tại, như tinh thần giác ngộ giải thoát ban đầu của đức Phật.
Bồ-tát theo nghĩa nguyên thủy là người biết sử dụng tánh giác để giác ngộ và giải thoát khỏi cái ta ảo tưởng. Chính cái ta ảo tưởng này tạo ra “vô số chúng sanh phiền não đau khổ trong tâm” mà chủ yếu là phát xuất từ vô minh ái dục, cụ thể như tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến v.v. Chính những “chúng sanh” này là hiện thân của đau khổ và tạo ra đau khổ cho mỗi người, vì vậy đối với bất cứ ai khi chưa “độ tận” chúng sanh (vượt qua phiền não) trong tâm mình thì có muốn thành Phật cũng không được, nên muốn giải thoát thì phải phát hạnh nguyện độ thoát phiền não (bản ngã chúng sanh) chứ đâu còn cách nào khác! Đối với chúng sanh bên ngoài thì người giác ngộ có thể chỉ đường cho họ để họ tự đi chứ không ai độ ai được.
Còn nói Phật thị hiện theo kiểu “Khi nào chúng sanh còn khổ thì ta còn trở lại thế giới ta-bà để độ chúng sanh qua bến giác” thực ra chỉ có nghĩa là khi nào còn xem thân ngũ uẩn này là bản ngã thì còn “chúng sanh phiền não khổ đau” nên gọi cái ta ngũ uẩn là thế giới sa-bà. Lúc đó chỉ còn trông cậy nơi tánh giác quay trở lại (chánh niệm) soi sáng mới mong phá trừ mọi vọng niệm (tỉnh giác) của cái ta ngũ uẩn đó để cứu thoát thực tại thân tâm (thân, thọ, tâm, pháp) ra khỏi cái ta ảo tưởng tạo tác khổ đau sinh tử mà thôi. Vì vậy câu nói trên có thể hiểu như sau: “Khi nào còn phiền não khổ đau (chúng sanh khổ), thì tánh biết phải nguyện quay lại nơi thân ngũ uẩn này (thế giới sa-bà) để hóa giải cái ta ảo tưởng trở về với thực tánh pháp”
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy! Có 1 nhà Sư nói với con rằng: những người đã quá vãng rất sợ người thân của mình bỏ rơi vào dịp năm hết Tết đến, nên gia đình cần làm lễ cầu siêu vào cuối năm để hồi hướng công đức đến họ vào dịp cuối năm là rất tốt. Vậy con kính xin thầy hoan hỉ cho con biết như vậy có đúng không? Vì con cho rằng sau khóa lễ hàng ngày con vẫn thường hồi hướng cho người thân đã quá vãng nên việc làm như nhà Sư kia nói cũng không cần thiết lắm, phải không thưa thầy? Con kính chúc thầy luôn an lạc!
Có thể là trong những dịp đặc biệt như lễ giỗ, lễ Báo Hiếu, lễ Dâng Pháp Y, lễ Tết, lễ Thượng Ngươn, Hạ Ngươn v.v. người quá vãng mong đợi thân nhân hồi hướng phước đến họ, nên người dân cũng có lý khi cúng vào những dịp lễ này. Nhưng nếu ngày nào cũng hồi hướng phước cho họ thì càng tốt hơn. Giống như ngày nào cũng phụng dưỡng cha mẹ, giúp đỡ mọi người tốt hơn là lâu lâu có dịp mới biếu xén, hay mở tiệc mời. Vì người đời không có dịp chăm sóc người thân mỗi ngày nên nhân có lễ lạc gì lớn thăm viếng chăm sóc họ cũng là điều tốt.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Sư, xin Sư chỉ cho con được rõ, con nghe giảng chỉ cần con người thoát ly Tam giới (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới) thì người đó đã đoạn tận phiền não và thể nhập Niết Bàn. Thưa Sư, quan niệm đó theo tinh thần Phật giáo Nguyên Thủy sai khác thế nào? Vì con có được nghe Sư giảng về giới, định, tuệ có 3 loại trong đó khi ta ngồi nghe Pháp hay đọc Kinh thì giới, định, tuệ ngay lúc đó là tự nhiên không phải do bản ngã tạo ra! Con thấy vấn đề đó cũng gần như khi xa lìa được ba cõi Dục, Sắc và Vô Sắc thì con người sẽ buông bỏ được tất cả sẽ an lạc! Xin Sư hoan hỷ cho con được tỏ tường!
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Nói chung là khi giới định tuệ được viên mãn thì thoát khỏi tam giới. Nhưng nếu giới định tuệ do bản ngã cố gắng hoàn thiện thì không bao giờ viên mãn được. Chí có tự tánh giới định tuệ mới viên mãn được thôi. Vì vậy pháp thiền Vipassanà Trong Phật Giáo Nguyên Thủy sử dụng giới định tuệ tự tánh (vô ngã) để loại trừ cái ta ảo tưởng muốn đạt thành. Cái ta luôn tạo ra tam giới, nên nó không bao giờ thoát ly được tam giới. Thoát ly tam giới đồng nghĩa với chấm dứt cái ta ảo tưởng. Bài kệ:
Học Đạo quý vô tâm
Làm, nghĩ nói khộng lầm
Sáng, trong và lặng lẽ
Giản dị mới uyên thâm
chính là mô tả một đời sống sáng suốt, định tĩnh, trong lành thoát ly tam giới vậy