Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính bạch Thầy! Con kính chúc Thầy tứ đại điều hoà, thân tâm thường an lạc.
Thưa thầy, hôm rồi con có thưa cùng Thầy, khi tâm con rỗng rang thường biết rõ ràng (như Thầy nói liễu liễu thường tri), có khi cả ngày không ngồi Thiền mà vẫn lặng lẽ rõ biết không một niệm như vậy. Nhưng con vẫn chưa “an” thưa Thầy, vì con còn biết có con và có vật đang hiện hữu, mặc dù vạn vật không ảnh hưởng gì đến con.
Nhưng hôm qua, con đọc lại lời Lục Tổ dạy: “chẳng thấy một pháp còn thấy không, giống như mây nổi che mặt trời, chẳng biết một pháp giữ biết không, lại như hư không sanh điện chớp”, thưa Thầy, chính nơi đây con đã biết được mấu chốt của con đang kẹt. Và một điều nữa, là cái thắc mắc lâu nay của con là khi cha mẹ chưa sanh ta là ai, giờ ta là ai và khi chết ta là gì, hôm qua con đã thấu hiểu việc sanh tử lâu nay ta bám chấp. Ta là KHÔNG phải không Thầy? Con vui mừng quá… giờ con đã thật sự bung cái khung bao lâu nay đã đóng kín mình. Xin Thầy cho con một lời chỉ dạy, việc con vừa chứng nghiệm có đúng pháp không thưa Thầy?
Pháp vốn tự nhiên đến đi tự tại, và thân ta, tâm ta… không phàm, không thánh… chỉ biết nó đang là.
Con thành kính tri ân Thầy!
Kính bạch thầy cho con hỏi:
1) Tiềm thức và tánh biết giống nhau hay khác nhau?
2) Nếu mình nhìn thấy, nhận biết các sự vật hiện tượng đúng theo quy luật, tất cả các pháp như nó đang là, không có sự can thiệp sự hiểu biết của ý thức vào để phân tích hay giải thích thì sẽ thấy tất cả các pháp một cách chân thực nhất. Chỉ có tâm chúng ta là xao động lăn tăn, biến đổi nên mới thấy có sự sai khác mà sinh lo âu, ưa ghét… đúng vậy không thầy?
Kính bạch thầy chỉ dạy. Con thành kính tri ân thầy!
1) Tánh biết bao gồm cả tiềm thức lẫn ý thức (vô thức và hữu thức). Do đó tiềm thức là phần ẩn sâu trong tánh biết, rộng lớn hơn nhiều so với ý thức chỉ là phần hạn hẹp trên bề mặt tiếp xúc với bên ngoài.
2) Đúng. Hoạt động lý trí của ý thức chỉ sử dụng trong phạm trù tục đế, khi thấy biết của ý thức thanh tịnh thì mới thấy đúng thực tướng (sabhāva), chỉ có tánh biết mới thấy đúng chân tánh (paramattha) của vạn pháp mà thôi.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy, cho con hỏi con hiểu như thế này có đúng không.
Khi lục căn tiếp xúc với lục trần sinh ra lục thức thì cái mà ta nhìn thấy, cảm nhận sự vật bên ngoài này là do lục thức nó vẽ lên dựa vào kinh nghiệm, thói quen và những tri thức trong quá khứ gọi là a-lại-da thức hay tiềm thức, chứ bản chất sự vật không có thật, mà người giác ngộ sẽ thấy nó là mộng, là uyển, là ảo ảnh.
Và cho con hỏi thêm là khi tu tập thiền định nếu mình quán xét về tánh không nhiều có thể mình rơi vào trạng thái vô ký và mất đi cái từ bi của đạo đúng không Thầy? Nhờ Thầy chỉ dạy thêm cho con tìm hiểu lý không một cách đúng đắn để không rơi vào tâm vô ký và mất đi từ bi.
Con cảm ơn Thầy nhiều.
Kính chúc Thầy sức khỏe.
Bản chất sự vật có 3 phần: Phần chân thực (thực tánh), phần duyên khởi (chân tướng) và phần huyễn hoá (ảo ảnh). Con đã đồng hoá phần huyễn hoá với phần chân tướng nên thấy cái gì cũng huyễn cũng ảo là không đúng.
Thực tánh ví như nước, chân tướng ví như sóng, ảo ảnh ví như thấy sóng thành con rồng. Con rồng là huyễn hoá do ảo tưởng, sóng do duyên sinh nên có thực tướng vô thường, sinh diệt, còn nước có thực tánh không sinh diệt nên không huyễn hoá chút nào.
Tánh không của thực tánh là không sinh không diệt, không thường không đoạn, không khứ không lai, không vô không hữu. Tánh không của duyên khởi là có sinh diệt vô thường, còn tánh không của ảo ảnh là hoàn toàn không có thật nên mới gọi là huyễn hoá.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Bạch Thầy, cho trò hỏi ý thức có phải là vật chất hay không? Mong Thầy từ bi chỉ dạy.
Ý thức là gì đâu cần thiết phải xác định. Biết nó hoạt động thế nào, đang diễn biến ra sao, công dụng của nó là gì, đâu là mặt lợi, đâu là mặt hại v.v… để có thế dụng nó mà không bị nó đánh lừa mới là thiết thực. Việc này thì mỗi người phải tự khám phá mới hứng thú không nên tin vào người khác.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con chào thầy ạ! Thưa thầy cho con hỏi 10 pháp ba-la-mật và 10 kiết sử có mối liên hệ gì với nhau không ạ? Nếu tích cực hành thiền minh sát để cắt đứt mười kiết sử thì các ba-la-mật có tròn đủ không ạ? Nếu vị đó phát nguyện như vậy có được coi là ham muốn chứng đắc của bản ngã không?
Con cảm ơn thầy!
Mọi pháp đức Phật chỉ bày đều có liên hệ mật thiết với nhau và liên hệ đến chính mình. Con cứ trọn vẹn tỉnh thức ngay nơi thực tại hiện tiền thì sẽ thấy ra tất cả, đừng cố tìm hiểu pháp trên ngôn từ qua khái niệm của lý trí.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Nam Mô A Di Đà Phật! con thành kính đảnh lễ Thầy. Con có môt vài điều thắc mắc xin Thầy khai thị, con cám ơn Thầy nhiều ạ.
Theo con được biết thời Phật đã có chữ viết và phương tiện công cụ ghi chép. Đạo Bà La Môn có trước đạo Phật cũng đã ghi chép kinh điển của họ. Vậy tại sao Phật Tổ lại không cho biên soạn kinh điển để truyền lại cho đời sau những lời dạy nguyên thủy và chân thực nhất của Ngài. Đành rằng ở một khía cạnh nào đó ngôn từ, sách vở có thể là vật cản cho việc thực hành nhưng không thể phủ nhận lợi ích của sách vở. Số người không biết Phật Môn khá nhiều nhưng đáng lo sợ hơn la ngay cả những Phật tử cũng không hiểu biết đúng đắn được Ngã Phật dù đã quy y, học đạo. Lý do của điều này một phần vì kinh điển khá rối rắm, khó hiểu, thậm chí có những đoạn những kinh đầy màu sắc mê tín, thần quyền không thể do Phật thuyết hay Tổ Sư nói được mà do người đời sau tự sáng tạo rồi gán cho Phật. Phật là bậc Toàn Giác, Người chắc chắn phải biết trước được ngày hôm nay nhưng sao lại không can thiệp. Con nghĩ rằng với Trí tuệ và thần thông của Phật và các vị Tổ Sư thì biên soạn và duy trì kinh điển hàng bao nhiêu ngàn năm đi chăng nữa không phải là điều khó khăn.
Đức Phật nói mà dường như không nói, ngôn ngữ chỉ là một phần rất bé nhỏ và hầu như không phải là chính yếu khi đức Phật khai thị Sự Thật. Những nhân tố chính yếu có tác dụng mạnh mẽ khi Ngài chỉ dạy là tâm thái, cử chỉ, nụ cười, ánh mắt, vẻ tự nhiên, năng lượng, trí tuệ, từ bi v.v… biểu hiện nơi Ngài ảnh hưởng trực tiếp đến người cầu đạo đúng với căn cơ, tình huống, không gian, thời gian và thái độ nhận thức, niềm tin, sự chú tâm trọn vẹn trong sáng của người ấy ngay lúc đó, còn ngôn ngữ chỉ là thứ yếu, đôi khi hoàn toàn không cần thiết, vì sự im lặng của đức Phật có tác dụng khai tâm hơn nhiều so với những gì Ngài nói.
Nếu như ngôn ngữ là trọng yếu đến thế thì khi đức Phật đã hoàn toàn giác ngộ Ngài chỉ cần bỏ ra một hai năm tìm một chỗ thanh vắng ngồi viết ra kinh điển rồi dùng thần thông biến ra vô số bộ kinh để phân phát cho chư thiên và nhân loại, đồng thời biến nó thành bất hoại để truyền lại cho muôn đời sau, rồi nhập Niết-bàn cho khoẻ, tội gì phải đi khai thị từng người và cần gì đệ tử phải ghi chép làm chi cho mệt. Cho dù làm thế Ngài vẫn không thể truyền đạt được toàn bộ chân lý Ngài đã giác ngộ qua ngôn từ mà chủ yếu là người được khai thị phải chứng ngộ chân lý ấy ngay nơi chính mình chứ chẳng có điều gì đến với anh ta qua ngôn từ cả.
Người thợ mộc đã rất đúng khi nói với ông vua đang nghiền ngẫm kinh điển rằng bệ hạ chỉ đang nhai lại cặn bã của Thánh nhân thôi. Chính vì thế mà sau khi đức Phật nhập diệt, lời dạy của Ngài đã được ghi lại một cách tóm lược qua trí nhớ, tất nhiên cũng có lợi nhưng đã tạo ra một hiệu ứng nguy hại khôn lường đó là sự phân phái do người sau hiểu nghĩa kinh ít nhiều sai khác, và càng về sau sự phát triển qua chú giải, luận thuyết, cùng các bộ kinh nguỵ tạo đã dần dần biến Đạo Phật thành Tôn giáo, Triết học và Tín ngưỡng. Như vậy không phải ngôn ngữ kinh điển chỉ còn là cặn bã của Thánh nhân đó sao? Chân lý luôn viên mãn nơi thực tại hiện tiền, vì không ai thấy nên Phật mới chỉ ra, ngay đó ai thấy được là xong, quên lời mới đúng.
Khi đạo sĩ Sāriputta hỏi ngài Assaji: “Thầy của ngài dạy gì?”, sao lúc đó ngài Assaji không bảo Sāriputta ngồi xuống nghe ngài đọc lại bài kinh Chuyển Pháp Luân mà chỉ nói một câu quá đơn giản: “Các pháp sinh ra từ một nhân”…? Vì ngài không cần lặp lại ngôn từ Phật nói, mà liền chỉ thẳng vào một sự thật, đó là tình trạng luôn sinh tâm tìm cầu sở tri sở đắc của Sāriputta, khiến Sāriputta bừng tỉnh. Sự bừng tỉnh kỳ diệu ấy đưa Sāriputta về với thực tánh chân đế (paramattha sacca) ngay nơi thực tại hiện tiền (sandiṭṭhiko dhammo).
Chân lý ở khắp nơi
Kiếm tìm chi ngôn ngữ
Khi tâm thật thảnh thơi
Chính là Dòng Bất Tử.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con chào thầy ạ, con muốn hỏi về năng lực tâm trong trường hợp sau ạ.
– Tại sao trong một giàn nhạc giao hưởng tới cả vài trăm người khi chơi chung một bài lại không có dù chỉ một người bị sai nhịp, tất cả đều rất ăn nhịp vào với nhau như thể họ có cùng một tâm duy nhất của một người vậy. Đó có thể coi là nhất tâm được không, cũng giống như khi mình chuyên chú làm một công việc gì đó vậy ạ?
– Nếu người này nhất tâm và người khác cũng nhất tâm vẫn có thể có sự sai nhịp chứ ạ. Hay tất cả họ cùng tạo ra một năng lực tâm chung hỗ trợ, khiến cho những người khác bắt nhịp được với “tần số tâm chung” nên không ai bị sai nhịp ạ!
Con cảm ơn thầy ạ!
Sáu thức của mỗi người khác nhau về tướng dụng do tiếp xúc với những duyên (đối tượng, hoàn cảnh, môi trường) khác nhau nên phát triển những khả năng khác nhau nhưng tất cả cùng chung một thể tánh. Như vậy Tâm có hai phần là tướng biết và tánh biết. Tướng biết sai khác giữa các căn với nhau và sai khác giữa người này với người kia, nhưng do tánh biết đồng nhất nên khi tướng biết (6 thức) đủ yếu tố thận trọng chú tâm quan sát trên từng đối tượng riêng hoặc trong lành định tĩnh sáng suốt trên cùng đối tượng chung thì liền có sự tương giao hoà hợp.
Trong bản năng tự nhiên chúng ta thấy những con đom đóm cùng chớp sáng một lần, những con ve cùng cất tiếng và cùng ngưng lại rất đồng bộ, những con cá Heo cùng biểu diễn rất hoà hợp với nhau. Thậm chí nhiều loài hoa cùng nở một lượt dù chúng ở cách nhau rất xa. Như vậy tính đồng nhất không phải chỉ có trong tánh biết và tướng biết mà còn trong cả những yếu tính và yếu tố của vật chất như đất, nước, lửa, gió và hư không nữa. Tóm lại, cả thể chất và tinh thần qua đất, nước, lửa, gió, hư không và tánh biết đều có khả năng bẩm sinh là sự tương giao, hoà hợp và đồng nhất.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy cho con hỏi. Con từng nghe nói “lý có đốn ngộ, sự thì tiệm tu” mà sao ông Bahiya khi nghe đức Phật nói xong đã được Phật ấn chứng A-la-hán ạ? Chỗ này con phân vân, thầy chỉ giúp con với ạ! con cám ơn thầy.
Thực ra chẳng phải đốn ngộ tiệm tu gì như người ta thường tưởng tượng mà chỉ là ai đã từng trải nghiệm sự thật thì dễ dàng thấy ra sự thật thôi. Trải nghiệm sự thật chính là tiệm tu, thấy ra sự thật gọi là đốn ngộ. Bàhiya đã từng trải nghiệm sự thật nhưng chưa biết đó là gì nên khi được Phật chỉ thẳng cho thì ngay đó ông liền thấy ra.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Bạch Thầy! Con có một thức tình kiến giải (lý luận của phàm phu) như thế này, kính Bạch Thầy khai thị cho con ạ.
Theo con thì những cái mà Thiền tông xiển dương như chân tâm, Phật tánh, hay cụ thể hơn như tánh biết, chẳng phải đó chính là duyên khởi tánh, không tánh, hay với chúng sinh hữu tình thì chính là vô ngã tánh đó sao? Theo con nếu ngoài ra thì phải coi là tà kiến, vì theo con biết thì lý duyên khởi – tánh không là một tư tưởng, cái thấy nhất quán mà PHẬT đã tuyên thuyết.
Mong THẦY đại từ, đại bi khai thị cho con ạ!
Vấn đề không phải là kiến giải trên ngôn từ mà phải thấy ra Sự Thật, nếu chưa thấy ra Sự Thật thì nói đúng nói sai, nói thật nói giả, nói có nói không gì cũng đều không phải Sự Thật. Thầy gọi sự tranh cãi trên ngôn từ chỉ là “hiệu ứng củ mì củ sắn”, và tất nhiên là mất thì giờ vô ích mà thôi!