Kính bạch thầy!
Con xin đảnh lễ thầy!
Hôm nay con rất vui tâm nhẹ nhàng an lành và hạnh phúc vì có duyên lành được gặp quý sư, chỉ cần nhìn thấy bóng y vàng, con lại có một sức mạnh gì đó làm cho cái tâm lung lay của mình kiên định, siêng năng, có niềm tin hơn và con lại khao khát giá mình là nam để được xuất gia. Con tham quá đúng không thầy? Nhưng giờ con nhận ra một điều là mình phải trọn vẹn với chính mình để học bài học của riêng mình, nhưng sao nhìn kỹ trong tâm con vẫn còn ẩn chứa gì đó. Bạch thầy con có nên dùng pháp đối trị nào để mình trọn vẹn với thực tại hơn trong trường hợp này không ạ?
Đối trị cũng được, nhưng con phải thấy ra pháp nào đối trị điều gì mới được. Thí dụ tâm vọng động thì có thể niệm Phật, tham ái cái gì thì niệm sự bất tịnh và nguy hại của cái đó, sân hận thì niệm tâm từ, giải đãi hoặc vọng cầu tương lai thì niệm sự chết. Tuy nhiên con cũng nên tập tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác đối với thực tại tức là thường trở về trọn vẹn trong sáng với chính mình, mặc dù đó không phải giải pháp đối trị nhưng lại trực tiếp hóa giải được mọi phiền não một cách hữu hiệu nhất.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy. Con đã hành thiền một thời gian nhưng hình như càng hành thì cái ta ảo tưởng càng ngày nó càng lớn, tỷ lệ thuận với những nỗ lực hành thiền của con. Phải chăng con nên buông thái độ tâm của mình xuống. Và khi ngồi thiền con niệm từ “Buông” như vậy có được không ạ? Con thường bị chìm vào những ảo tưởng, nó còn cuốn con đi theo nó, nào là suy nghĩ những việc viển vông không đâu vào đâu, toàn chuyện ảo tưởng con tưởng tượng ra. Có phải bệnh tẩu hỏa nhập ma của con bị nặng đúng không ạ?
Thưa thầy, làm sao con buông được cái ta ảo tưởng xuống ạ? Kính mong thầy chỉ dạy cho con.
Con thành kính đảnh lễ Thầy.
Con chưa tẩu hỏa nhập ma đâu, vì thấy ra tình trạng thực của thân tâm là một bước tiến khá xa ra khỏi cái gọi là “hành thiền”. Thiền là soi thấy mọi hoạt động của cái ta ảo tưởng để trả thực tại về với bản chất chân thật (thực tánh sabhàva) của pháp, chứ không bị lừa mà “hành” theo lập trình lý tưởng của nó. Lý tưởng của bản ngã chính là ảo tưởng viển vông vô ích. Thấy ra sự viển vông vô ích này, đồng thời thấy ra thực tánh vốn tự nhiên của pháp chính là thiền. Thiền không phải là hoạt động của lý trí và tham ái với mục đích đạt được sở tri và sở đắc của cái ta ảo tưởng. Thiền là thấy ra toàn bộ sự thật và ngay đó có sự chuyển hóa. Sự chuyển hóa này chính là sống tùy duyên thuận pháp vô ngã vị tha.
Cái sai của con là ở chỗ chưa thông suốt thái độ “buông”. Ý đồ buông cũng là ý đồ của bản ngã. Có nhiều loại buông: Buông cái không thích, buông cái đã chán, buông cái bất lợi, buông cái không dùng nữa v.v… Buông như vậy chỉ có nghĩa là bỏ đi một vật, một việc hay một trạng thái không bằng lòng vừa ý mà thôi. Đó chỉ là buông bên ngoài, còn chữ buông thầy nói là buông thái độ bên trong, hay nói cho cụ thể là buông ý đồ lăng xăng của bản ngã. Khi không còn thái độ lăng xăng của bản ngã thì tâm trở về với bản chất rỗng lặng trong sáng tự nhiên của nó, bấy giờ buông có nghĩa là để yên mọi sự, mọi vật, mọi trạng thái như nó đang là và chỉ thấy thực tánh của nó là như vậy thôi, không có ta, của ta, tự ngã của ta trong đó. Ý đồ của bản ngã thì có sinh có diệt, còn buông chính là tâm bất sinh chứ không sinh tâm ưa ghét để rồi có lấy có buông.
Tuy nhiên, nếu con niệm “buông” như một pháp đối trị tạm thời thì cũng được. Khi tâm quá vọng động mà tầm thấy biết chưa đủ trung thực, khiến sinh rối loạn thì tự nhắc “buông” để cảnh giác mình trở về chánh niệm tỉnh giác là tốt. Pháp đối trị nếu biết sử dụng đúng thời, đúng chỗ, đúng trường hợp thì vẫn có thể mở đường cho thấy biết chân thực, nhưng ngược lại nếu sử dụng như phương tiện đạt được trạng thái lý tưởng thì mới là trở ngại cho sự chuyển hóa tự nhiên. Khi người chưa thấy pháp hay chưa ngộ thì đối trị còn trong vòng khái niệm đúng sai, thiện ác và luôn muốn trở thành, nên chỉ làm cho vấn đề phức tạp thêm, nhưng khi đã thấy pháp thì đối trị cũng là việc tự nhiên như đói thì ăn, khát thì uống… không có gì là sai cả.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, con rất hay ảo tưởng hảo huyền. Gần đây con sống phóng dật theo dục tưởng nên mệt mỏi và nhức đầu. May con đọc được bài thơ trong kinh pháp cú :
“Không phóng dật, đường sống
Phóng dật là đường chết
Không phóng dật, không chết
Phóng dật như chết rồi.”
Con thấy rất thấm thía lời dạy của Đức Phật, đúng là phóng dật như chết rồi! Thưa thầy, thầy có bản tiếng pali của bài thơ này, thầy cho con xin để con tập đọc hàng ngày vì tâm con hay phóng dật.
À, thưa thầy, đôi khi chuẩn bị phóng dật là con biết nhưng cái tâm ham muốn quá mạnh nên con chẳng kiên nhẫn nổi. Vậy con có nên tập tạm thời thiền định để đối trị những lúc như vậy không ạ. Xin thầy cho con lời khuyên!
Con xin tạ ơn đảnh lễ thầy!
2- Cách xử lý phóng dật mỗi người một khác tùy căn cơ trình độ của mình, không có một phương pháp tiêu chuẩn nào nhất định. Chủ yếu cần biết rõ rằng nguyên lý không phóng dật chính là trở về trọn vẹn trong sáng với thực tại mà Kinh Tứ Niệm Xứ gọi là tinh tấn chánh niệm tỉnh giác trên thân thọ tâm pháp. Để thực hiện điều này dễ dàng và hiệu quả thì chỉ cần thận trọng chú tâm quan sát mọi hoạt động của thân tâm trong tương giao với hoàn cảnh đang sống là được. Thấy ra là chính chứ không phải đạt được điều gì. Thấy ra cái sai để tự động điều chỉnh thì tốt hơn là cố đạt đến cái đúng như mình nghĩ.
Rốt ráo mà nói thì trú vào định cũng là một loại phóng dật cao cấp biểu hiện trong sắc ái và vô sắc ái nên Phật đã đạt được thiền định cao nhất vẫn từ bỏ để trở về trọn vẹn trong sáng với thực tại và đã hoàn toàn giác ngộ. Định có thể là một phương tiện như bao nhiêu phương tiện khác, nghĩa là cần thì dùng không thì thôi chứ đừng để lệ thuộc vào nó. Giống như nước, khát thì uống, không thì thôi chứ uống quá nhu cầu cần thiết cũng vẫn sinh bệnh. Buông tốt hơn là trụ, vì pháp là vô thường vô ngã nên trụ vào đâu cũng khổ, dù động hay tịnh thì cũng chỉ là hai đối cực của sự sống mà thôi, trụ bên nào cũng khổ như nhau. Chủ yếu là sống thăng bằng không tấp vào bờ bên này bên kia là được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy, xin Thầy cho phép con hỏi thêm để được thông suốt hơn cho thắc mắc về Pháp hiểu theo nghĩa “bản sao.” Thầy dạy là khi chúng “được ghi vào Bhavanga thì nó đã trở thành những ý tượng có tính chất riêng theo sự vận hành của nó”.
Nhưng khi những Pháp “bản sao” đó tái hiện lên thì mình có nên để cho chúng “tự vận hành” không? Hay mình phải làm gì?
Con xin thành thật cám ơn Thầy.
Xem câu trả lời
Nhiều người xử lý “pháp trần” bằng thiền định để trấn phục nó và xem ra thành công nên họ tưởng như vậy là đã yên, nhưng hậu quả là nó chỉ bị dồn nén mà người ta thường nói là “lấy đá đè cỏ” và sẽ bùng lên mãnh liệt hơn khi có điều kiện thuận lợi. Cách tốt nhất là chỉ cần phát hiện và thấy rõ sự sinh diệt của nó thôi. Thấy tức minh, minh tức hành vipassanà hay kiến tánh vậy. Nhờ nó mà “thấy”, “minh” mới được thực hiện bài học “nội tâm thanh tịnh thấy rõ các pháp” vì vậy đừng cố gắng xử lý bằng tâm tạo tác chủ quan.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Dạ thưa Thầy, mỗi lần nóng giận con thường dùng hai cách. Thứ nhất là “phân tích” nó, vì sao mình giận… Thứ hai là quay lại “nhìn” nó. Cả hai cách con dều thấy ổn, phân tích xong thì thấy không việc gì mà nóng; quay lại nhìn thì chẳng thấy nó đâu. Nhưng khi con buông cái sự chú tâm đó xuống thì trong chốc lát cơn nóng giận lại quay về ngay. Vậy là do con không hành đúng hay con chưa đủ nội lực thưa thầy?
Nhân tiện thầy cho con hỏi tiếp, nếu mở trang trại chăn nuôi như nuôi gà lấy trứng, bò lấy sữa,… thì có được không thưa thầy? Vì rồi sau đó mình cũng phải bán những vật nuôi ấy cho người ta.
Con xin đa tạ thầy chỉ dạy.
1) Khi phân tích con thường dùng lý trí để tìm hiểu hiện tượng sân qua danh khải niệm (nàma pannatti) của kiến thức nên mặc dù nó có thể tạm thời ổn nhưng con vẫn chưa thấy được bản chất thực của sân. Khi “nhìn” con cũng có thể nhìn sân với cái nhìn qua vật khái niệm (attha pannatti) tức hiện tướng bên ngoài nên vẫn không thấy được thực tánh của sân. Chính vì vậy khi con buông cái nhìn ấy ra thì sân vẫn y như cũ. Con phải nhìn với cái nhìn rỗng lặng, trong sáng và hồn nhiên mới được.
2) Những nghề gì làm con phân vân nghi ngại thì không nên làm. Còn nếu con thấy rõ nghề đó có lợi nhuận nhưng tổn hại đến chúng sanh khác thì đương nhiên lại càng không nên làm hơn nữa,
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Sư, xin Sư cho con hỏi làm sao để con diệt được cái tâm mong cầu và tâm chóng đối. Con nhận thấy rằng 2 cái tâm này nó làm con khổ sở rất nhiều. Xin tri ân Sư!
Tùy trình độ của con mà ứng dụng những phương án sau đây: (Nếu phương án 1 không ứng dụng được thì mới sử dụng phương án 2. Hai không dược thì 3. Ba không được thì 4. Hoặc tùy nghi sử dụng 4 phương án theo từng trường hợp khác nhau sao cho thích ứng và hiệu quả là được)
1- Buông xả hoàn toàn (cái ta phản ứng) cho tâm rỗng lặng trong sáng thì tâm liền sáng suốt định tĩnh trong lành.
2- Trở về thực tại thân tâm với tinh tấn chánh niệm tỉnh giác.
3- Thận trọng chú tâm quan sát ngay khi mong cầu (tham) hay chống đối (sân) khởi lên để thấy bản chất sinh diệt của nó.
4- Niệm Phật để tâm không vọng động. Niệm bất tịnh hay niệm sự chết để tâm không tham. Niệm tâm từ để tâm không sân.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Xin Thay giai dap cho cau hoi sau:
Nhu ly tac y de doi tri phong tam co phai la huong tam ve lai de muc thien tuc la thuc hien Tam va Tu?
Cam on Thay.
Xem câu trả lời
Tác ý (manasikara) là một trong bảy 7 yếu tố cơ bản luôn có mặt trong tất cả tâm. Nó có nhiệm vụ tự nhiên ban đầu là dẫn tâm về một trong hai hướng (mặt) của đối tượng. Nếu nhận đối tượng theo hướng chân thực thì gọi là như lý tác ý, nếu nhận đối tượng theo hướng chủ quan thì gọi là phi như tác ý. Ví dụ thấy sợi dây như nó là tức hướng thấy đúng thì gọi là như lý tác ý. Nếu thấy sợi dây là con rắn tức hướng thấy ảo tưởng thì gọi là phi như tác ý. Nhiều người hiểu lầm như lý tác ý là ý chí quyết định đúng, và phi như tác ý là ý chí quyết định sai. Như vậy là nhầm lẫn tác ý với tư tác (cetana). Đối trị phóng tâm không phải là công việc của tác ý. Cố ý dùng ý chí đối trị phóng tâm tức muốn loại bỏ phóng tâm thì đó là một tâm sân, chỉ làm cho phóng tâm tăng thêm, hoặc làm cho tâm căng thẳng, mệt mỏi, đưa đến hôn trầm thụy miên, một trạng thái ngược hẵn với phóng tâm nhưng cả hai đều có trạng thái si giống nhau. Chính tầm (vitakka) mới làm công tác hướng tâm đến đối tượng. Khi tầm vừa đủ thì tứ (vicara) giúp tâm giữ thăng bằng trên đối tượng. Khi tâm lập lại thăng bằng thì hỷ (piti) phát sinh khiến cho sân tự rút lui. Sau đó hỷ dịu xuống thì lạc (an ổn) đến và lập tức phóng tâm (trạo hối) tự rút lui chứ không cần dùng ý chí đối trị. Cần nắm vững điều này nếu không chỉ tạo chiến tranh nhị nguyên của bản ngã trong thiền định. Thắng thì sinh ngã mạn tự tôn, bại thì tự ty mặc cảm, đều chỉ là biểu hiện của cái ta háo thắng mà thôi.