Con chào Sư Ông, con có câu hỏi là lúc thực tập chánh niệm trên thân như là lúc đi, đứng hay những hoạt đông khác của thân, con thường hay niệm trong đầu, ví dụ như ‘bước, bước’, ‘nâng, nâng’ hay ‘ngồi, ngồi’. Vấn đề ở đây là mỗi lần con thử bỏ những niệm đó đi và chỉ cảm nhận thì vọng tưởng lại khởi lên và rất khó giữ chánh niệm. Cho nên bây giờ con phải làm gì, tiếp tục niệm những cử động như con đang làm hay phát huy nhận biết thôi? Con xin chân thành cảm ơn.
– Cách niệm gọi tên đối tượng gọi là “danh tướng niệm”.
– Cách niệm chỉ nhận rõ đối tượng gọi là “thực tướng niệm”.
– Cách niệm chỉ cần tâm rõ biết không nắm giữ tướng chung tướng riêng của đối tượng gọi là “thực tánh niệm”.
Con cứ tuỳ khả năng thực hành 3 bước trên là được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con thành kính đảnh lễ thầy.
Thưa thầy con xin trình pháp về thiền Tứ niệm xứ.
Thưa thầy bài trình pháp này của con viết ngày 16/08/2016. Con nhận ra được đây là kim chỉ nam cho cuộc sống của con trong đời này.
Mặc dù con đã làm rất nhiều chuyện trong cuộc sống nhưng cuối cùng cho dù thành công hay thất bại, hài lòng hay không hài lòng thì kết quả vẫn là sầu, bi, khổ ưu, não.
Chính vì vậy mà nội tâm con luôn đi tìm một con đường thật sự để sống đúng tốt và cuối cùng nhờ thầy mà con đã tìm ra. Thiền tứ niệm xứ chỉ đơn giản là trở về quan sát lại thân và tâm, quan sát lại các tình trạng cảm giác của thân và các tình trạng cảm xúc của tâm và đặc biệt là thái độ phản ứng nội tâm trước hoàn cảnh sống.
Thiền tứ niệm xứ bao gồm; niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp. Khi nắm vững nguyên lý và thực hành thiền tứ niệm xứ trong đời sống thì giá trị cốt lõi thiền tứ niệm xứ mang lại là phá đi bản ngã vô minh ái duc. Con người sở dĩ đau khổ chỉ đơn giản là do sống trong vô minh. Vô minh là không biết sự thật. Nếu biết sự thật và sống trong sự thật thì không có phiền não khổ đau. Vậy sự thật là gi? Sự thật là tất cả những gì khi lục căn tiếp xúc với lục trần mà không có cái bản ngã vô minh ái dục chen vào. Như vậy mỗi người đều đang sống trong một tình trạng ảo được kết thành từ những kinh nghiệm, khái niệm, quan điểm… biểu hiện dưới dạng cái “ta”. Phá đi cái ta trong từng hoạt động, trong từng suy nghĩ… thì đó cũng chính là phá đi bản ngã vô minh ái dục chi phối đời sống mỗi người. Phá đi cái ta tức là gỡ ra trói buộc do chính cái ta cột vào. Cột vào như thế nào thì gỡ ra cũng như vậy. Gỡ ra chỉ đơn giản là biết cái ta đã cột vào như thế nào, hậu quả ra sao. Chính vì vậy mà thầy đã dạy chúng con: Chỉ có sự giác ngộ trong tương giao, không có sự giác ngộ cá nhân.
Bản ngã vô minh ái dục hình thành từ đời sống, do đó cũng phải từ đời sống mà phá đi bản ngã vô minh ái dục. Niệm thân, niệm thọ, niệm tâm là giúp cho mỗi người biết trở về nhìn lại thân và tâm, hạn chế tình trạng tâm chạy ra bên ngoài dính mắc vào các đối tượng, hay đắm chìm trong quá khứ hay mộng tưởng tương lại. Niệm pháp là thấy ra trói buộc khi tương giao với hoàn cảnh sống. Thấy ra khổ chỉ là ảo, thấy ra nguyên nhân đưa đến đau khổ là hoạt động tạo tác của bản ngã trong tình trạng vô minh, tà kiến. Khi một tâm sinh lên có thể là do duyên bên ngoài tác động hay tự bên trong phát ra mà tâm ấy là phản ứng của bản ngã đầy chất trói buộc thì đó chính là luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau. Đạo đế chính là tuệ thấy được tâm sinh lên từ sự duyên khởi, thấy trói buộc từ tâm ấy đem đến… cũng tương đương với niệm pháp là con đường duy nhất để tháo gỡ những trói buộc hay phá ra bản ngả vô minh ái dục. Thưa thầy con tin là nếu sống như vậy thì giác ngộ giải thoát là tất yếu. Giá trị sống của con người trên cuộc sống này chỉ có vậy.
Con thành kính tri ân thầy và con chúc thầy luôn mạnh khoẻ. Con xin chào thầy.
Kính bạch thầy, trong thiền tuệ, thầy dạy rằng BUÔNG (bản ngã) để CẢM NHẬN (pháp) đến đi một cách tự nhiên mà không nỗ lực cố gắng. Như vậy có phải là Niệm thân, niệm thọ, niệm tâm và niệm pháp cùng lúc hay không? Con có đọc cuốn Pháp hành thiền tuệ của sư Hộ Pháp có đoạn nói rằng: Trong niệm thân thì không nên niệm thọ, tâm, pháp…hoặc ngược lại…Mong thầy chỉ ra cho con sự liên hệ giữa các pháp này. Con kính chúc thầy sức khoẻ, an vui.
Tất nhiên niệm thân thì không thể niệm thọ v.v… Thầy cũng nói vậy, nhưng khác ở chỗ có người chỉ niệm thân suốt đời, niệm thọ cũng vậy, còn thầy nói khi đang đi thì niệm thân nhưng lúc chân đạp gai đau chẳng lẽ không được thấy đau, thấy đau tức đã niệm thọ rồi, đau khó chịu quá tâm nổi sân chẳng lẽ lại không được thấy sân, thấy sân tức niệm tâm rồi, và người trí chẳng lẽ không cho họ thấy đó là tiến trình ngũ uẩn, thấy ngũ uẩn là niệm pháp rồi. Nếu người đó trong khi thấy thân, thấy thọ, thấy tâm như thật nên biết đó là đang chánh niệm tỉnh giác, chẳng lẽ lúc đó họ không thấy niệm giác chi? Hoặc ngay đó họ thấy Tứ Thánh Đế không được vì bận niệm thân nay sao. Vậy con tự chiêm nghiệm xem thế nào là đúng.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy,
Con có 2 câu hỏi, xin Thầy giúp con.
1/ Quý sư dạy tứ niệm xứ là quán thân thọ tâm pháp.
Khi con ăn cơm, con thấy miệng con nhai, đó là con niệm thân; nếu con thấy ngon, đó là con đang niệm thọ; và con muốn ăn thêm, đó là con niệm tâm (tham). Nếu con ăn nhằm ớt quá cay, thì con niệm thọ cay, và con thấy bực mình tức là con niệm tâm (sân). Con phân tích như vậy có đúng không?
Còn niệm pháp là cái gì tiếp theo, con không biết, xin thầy giúp con một ví dụ.
2/ Hôm trước con hỏi thầy tâm xả là gì, Thầy trả lời rằng xả là không chấp, con lại càng mù tịt hơn.
Trong câu chuyện ông Sư nhận đứa con từ một cô gái chửa hoang, ông chỉ nói “thế à”, rồi sau đó họ đến xin lỗi ổng cũng chỉ nói “thế à?”, như vậy có phải là tâm xả không?
Tâm xả có phải là chỉ quan sát mà không phản ứng, không đòi hỏi phải thế này thế nọ phải không thưa Thầy?
1) Dùng những từ thân, thọ, tâm, pháp là để nói cho người nghe dễ nhận ra thôi. Không nên quá lệ thuộc vào ngôn ngữ để phân biệt, mà phải thấy ra trên thực tánh của những thực kiện ấy, thân như thế nào thấy như vậy, thọ như thế nào cảm nhận như vậy, tâm như thế nào biết như vậy, pháp như thế nào phát hiện như vậy.
Cay, chua, nóng, lạnh… chỉ là vị giác, xúc giác, chúng có thể tạo ra cảm thọ chứ không phải là cảm thọ, khi nào những trạng thái này làm phát sinh khổ, lạc hoặc xả mới là thọ. Ngon dở là ý niệm chứ không phải cảm giác, nó có thể tạo ra cảm giác về tâm tức cảm xúc, chứ tự nó không phải là cảm thọ. Muốn ăn thêm cũng chưa hẳn là tham, muốn ăn thêm do nhu cầu tự nhiên thì chỉ là muốn hay cần (chanda) thôi chứ không tham (lobha). Do vậy, tốt nhất sự kiện hoặc trạng thái như thế nào thấy như vậy thôi đừng gọi tên để phân biệt gì cả.
Khi thấy các đối tượng thân, thọ, tâm riêng biệt thì gọi là minh sát thân, minh sát thọ, minh sát tâm, nhưng khi thấy thân, thọ, tâm thành một tiến trình diễn biến tương giao hay quan hệ với nhau thì đó là minh sát pháp. Thí dụ thấy ngũ uẩn, thấy sự tiếp xúc của 6 căn, 6 trần, thấy 5 triền cái, thấy 7 giác chi, thấy Bốn Sự Thật…
2) Xả có nhiều loại: Về tính chất thái độ hành động xả là không thiện không ác. Về cảm thọ thì xả là không lạc không khổ. Về trạng thái tâm thì xả là tâm quân bình tự tại không thiên lệch, không chấp thủ. Quan sát với tâm xả hay gọi là tuệ xả là chỉ thấy biết mà không can thiệp, không phê phán, không phản ứng thuận nghịch.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Dạ, con kính đảnh lễ Thầy!
Con xin trình pháp với Thầy như sau: Gần đây trong khi thực hành khi con hay cảm nhận rõ sự tiếp xúc giữa quần áo với thân. Xin Thầy từ bi hướng dẫn cho con thêm. Con xin tri ân Thầy!
Thân, thọ, tâm, pháp cảm nhận trung thực được gì đều tốt cả. Càng cảm nhận bình thường đơn giản chừng nào lại càng tốt. Mặc ai mong cầu những sở đắc to lớn, con cứ thấy các pháp đến đi vô ngại là được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy, con cám ơn Thầy đã trả lời ngay cho con. Thầy cho con xin mỗi thứ 2 cuốn, con giữ cho mình 1 bộ, khi nào thắc mắc là tự tra tìm để thực tập, bộ kia con sẽ trao cho chùa để các huynh đệ khác nếu muốn tìm hiểu sẽ có đủ tài liệu để thực tập. Sau đây Thầy cho con hỏi:
– Có 1 sư cô giáo thọ nghe con kể về những gì con đã học học được từ Thầy về Vipassana, sư cô hỏi con, trong thiền Tứ niệm xứ, niệm thân, niệm thọ, niệm tâm thì sư cô hiểu, nhưng niệm pháp thì sư cô chưa rõ lắm, vậy con hiểu thế nào.
Con có trả lời sư cô là tốt nhất Sư cô vào trang web hỏi Thầy.
Tuy vậy, con cũng có trả lời theo những gì con đã nghe Thầy giảng, con xin trình ra đây để Thầy xem con nói đúng không.
Thân thọ tâm là một chuỗi vận hành. Khi niệm riêng từng phần một thời gian thì tự mỗi hành giả sẽ cảm nhận sự vận hành tương tác giữa thân thọ và tâm, đó là niệm pháp, mọi thứ đều là diễn biến của pháp, hoặc luân hồi sanh tử, hoặc Niết-bàn (vì vậy mà các trường thiền chỉ hướng dẫn niệm thân thọ tâm chứ không nói niệm pháp).
Con kính Thầy chỉ giáo thêm.
Con giải thích vậy cũng đúng. Bốn đề mục của thiền vipassanā (minh sát) đi từ thấp lên cao, từ thô đến tế. Người mới tập quan sát thường dễ thấy thân nhất rồi khi chánh niệm tỉnh giác nhuần nhuyễn hơn mới thấy được thọ, sau đó chánh niệm tỉnh giác càng rõ ràng hơn mới thấy được những trạng thái tâm và cuối cùng khi chánh niệm tỉnh giác đến mức hoàn toàn sáng suốt định tĩnh trong lành thì mới thấy pháp trong sự tương giao giữa thân thọ và tâm, chẳng hạn như thấy 5 triền cái, 5 uẩn, 12 xứ, 7 giác chi, 4 Sự Thật… vì khi thấy được đến đó thì cũng đắc đạo quả luôn.
Thầy sẽ gởi cho con 2 bộ sách con cần.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy, con đọc kinh Tăng Chi trong phẩm Thiên Định có nói về một pháp là thân hành niệm. Kính Thầy chỉ dạy cho con biết thực hành thân hành niệm là như thế nào? Con có nghe về Tứ Niệm Xứ, vậy thân hành niệm và niệm thân trong Tứ Niệm Xứ cách thực hành giống và khác như thế nào ạ? Con cám ơn Thầy.
Niệm thân trong kinh Thân Hành Niệm và niệm thân trong kinh Tứ Niệm Xứ tuy đối tượng hầu như giống nhau nhưng hướng thực hành lại khác. Trong bài kinh Thân Hành Niệm thì niệm thân được xem là đề mục thiền định để đắc các bậc thiền sắc giới, nhưng trong kinh Tứ Niệm Xứ niệm thân lại là đề mục thiền tuệ để thấy ra bản chất thật của thân.
Trong thiền định hành giả sử dụng hai chi thiền tầm và tứ trên các đối tượng thân với mục đích định tâm, còn trong thiền tuệ thì hành giả sử dụng chánh niệm và tỉnh giáctrên các đối tượng thân ấy với mục đích thấy ra thực tánh chân đế của các sắc pháp. Con cần thấy rõ sự khác biệt giữa pháp hành thiền định và thiền tuệ thì mới biết cách xử lý các đối tượng thân ấy khác nhau thế nào.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy cho con hỏi, con chưa hiểu lắm câu “trở về thực tại”, thực tại ở đây là cảnh vật hoàn cảnh sống xung quanh đang hiện hữu, khi có ý niệm hay mơ tưởng gì không thật hay gây đau khổ thì mình dừng lại rồi quay về với hoàn cảnh sống xung quanh, công việc hiện thực của mình phải không ạ? Nếu như vậy thì có đè nén những tư tưởng đó không thưa thầy?
Con xin thầy giải thích cho con ạ. Con xin cảm ơn thầy.
Một ý niệm hay một mơ tưởng không thật có nghĩa là đối tượng của nó không thật nhưng bản thân ý niệm khởi lên đó vẫn là một trạng thái sinh diệt của tâm, vì vậy trở về thực tại trong trường hợp này chính là niệm tâm. Niệm tâm là tâm quay về biết chính mình chứ không đuổi bắt đối tượng không thật kia nữa.
Trong khi con đang đi bộ mà tâm lại lang thang đi tìm đối tượng không thật (mơ mộng) gọi là thất niệm, bấy giờ con vấp phải một cục đá liền chợt tỉnh cơn mơ trở về biết mình đang đi và thận trọng chú tâm quan sát lại động tác đi đang diễn tiến nơi thân và đang tiếp xúc với đường đi, đó là niệm thân… Trong cả hai trường hợp trở về với thực tại thân hay tâm như vậy con đè nén cái gì?
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con cám ơn thầy đã chỉ dạy cho con. Như vậy khi bị phóng tâm, con chỉ nhìn và quan sát sự sinh khởi của nó phải không thưa thầy? Con kính thầy từ bi chỉ dạy. Con cám ơn thầy.
Xem câu trả lời
Nếu niệm thân thì con chỉ cần biết có phóng tâm khởi lên rồi trở về trực nhận hiện trạng của thân. Còn nếu niệm tâm thì thường khi tâm hướng ra đuổi theo đối tượng của nó nên gọi là phóng tâm, do đó quay tâm về cảm nhận lại chính nó thì phóng tâm sẽ diệt. Vậy niệm tâm là tâm trở về thấy sự sinh diệt của chính nó. Cách hay nhất là con buông cái ta muốn biết muốn được đi thì ngay đó tánh biết sẽ rỗng lặng trong sáng và tự biết rõ thân, thọ, tâm, pháp một cách rõ ràng mà không cần chọn lựa nắm bắt đối tượng nào.