Thưa Thầy,
Con đang tập thiền Tứ Niệm Xứ trong đời sống, có một số việc con trở về CNTG kịp, nhưng có cái diễn ra nhanh quá. Như hôm nay con ham ăn. Ăn xong con mới định thần lại, thấy nó đi như chớp từ thọ, tưởng (khi thấy đồ ăn ngon đang thèm) đến hành động hữu (ăn no luôn) mà không kịp nhận ra nó qua ái, thủ gì hết. Khởi sinh thì con biết, nhưng không kịp như lý tác ý nhắc mình. Có cách nào làm chậm tiến trình này lại với những trường hợp vừa là sở thích vừa là thói quen để mình quan sát không Thầy?
Con cảm ơn Thầy!
Con lại muốn thiền hoàn hảo ngay nữa rồi mà không biết. Đó là lỗi nóng vội, cầu toàn. Không phải là muốn sao cho chánh niệm tỉnh giác hoàn hảo ngay, vì đó cũng vẫn là ý đồ của bản ngã chứ không phải như lý tác ý đâu. Khi con muốn chánh niệm tỉnh giác thì không còn là chánh niệm tỉnh giác nữa mà đó là ý chí của bản ngã. Ngược lại khi không có ý đồ cố gắng chánh niệm tỉnh giác của ý chí (ái, thủ) thì ngay đó chánh niệm tỉnh giác liền chiếu soi. Tánh biết vốn trực tiếp, tự nhiên và vô ngã nên có thể chánh niệm tỉnh giác ngay lập tức mọi diễn biến của thân-tâm-cảnh, chỉ vì ý chí (ái, thủ) xen vào tạo tác (hữu) mà che lấp chánh niệm tỉnh giác đó thôi.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Bạch Thầy,
Hiện tại con đang thế này ạ: khi tâm con trào cử, con biết con đang trào cử và tự nhiên có một tiếng nói ở bên trong con nói là cần buông xả. Và con làm được thật là lúc đó con không nghĩ bất cứ điều gì nữa. Như vậy có phải vẫn còn lý trí không Thầy?
Đó có thể là lý trí, ý chí (cetanā), mà cũng có thể là như lý tác ý (yoniso manasikāra). Nếu đó là hướng tâm tự nhiên thì gọi là như lý tác ý, nếu đó là mệnh lệnh của lý trí thì gọi là ý chí, như lý tác ý thì vô ngã, ý chí thì còn hữu ngã
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Dạ thưa Thầy! “Như lý tác ý” và “Vipassana” là đồng nghĩa phải không ạ? Con cảm ơn Thầy.
Không đồng nghĩa mà chỉ có liên hệ mật thiết với nhau. Con vào nghe Pháp Thoại – Ngày 5 khoá thiền 16 – thầy có giảng về như lý tác ý trong quan hệ với thấy biết như thật.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kinh thưa thầy giải thích dùm con đoạn kinh của kinh “Tất cả các lậu hoặc” như sau:
Vị ấy không như lý tác ý như sau: “Ta có mặt trong thời quá khứ, hay ta không có mặt trong thời quá khứ? Ta có mặt trong thời quá khứ như thế nào? Ta có mặt trong thời quá khứ hình vóc như thế nào? Trước kia ta là gì và ta đã có mặt như thế nào trong thời quá khứ? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai hay ta sẽ không có mặt trong thời vị lai? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai như thế nào? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai, hình vóc như thế nào? Trước kia ta là gì và ta sẽ có mặt như thế nào trong thời vị lai?” Hay nay vị ấy có nghi ngờ về mình trong thời hiện tại: “Ta có mặt hay ta không có mặt? Ta có mặt như thế nào? Ta có mặt hình vóc như thế nào? Chúng sanh này từ đâu đến? Và rồi nó sẽ đi đâu?”.
Với người không như lý tác ý như vậy, một trong sáu tà kiến này khởi lên: “Ta có tự ngã”, tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn; “Ta không có tự ngã”, tà kiến này khởi lên với người ấy như thật như chơn; “Do tự mình, ta tưởng tri ta có tự ngã”, tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn; “Do tự mình, ta tưởng tri ta không có tự ngã”, tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn. “Không do tự mình, ta tưởng tri ta có tự ngã”, tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn; hay tà kiến này khởi lên với người ấy: “Chính tự ngã của ta nói, cảm giác, hưởng thọ quả báo các nghiệp thiện ác đã làm chỗ này, chỗ kia, chính tự ngã ấy của ta là thường trú, thường hằng, hằng tồn, không chuyển biến, và sẽ vĩnh viễn tồn tại”. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là tà kiến, kiến trù lâm, kiến hoang vu, kiến hý luận, kiến tranh chấp, kiến kiết phược. Này các Tỷ-kheo, trói buộc bởi kiến kiết sử, kẻ phàm phu ít nghe không được giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói kẻ ấy không thoát khỏi khổ đau.
Con không hiểu tại sao vị ấy không như lý tác ý như trên mà lại phải mắc sáu tà kiến, còn như nếu có như lý tác ý thì không mắc các tà kiến hay sao? Con chưa hiểu đoạn kinh này. Kính xin thầy thầy giảng giải cho con được hiểu. Trân trọng cám ơn thầy.
Không như lý tác ý tức hướng nhìn lệch lạc, không đúng với sự thật nên đương nhiên phát sinh tà kiến. Nếu như lý tác ý thì đã thấy đúng sự thật như nó là làm sao sinh tà kiến được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy! Pháp “Như lý tác ý” có thể dùng để hỗ trợ cho việc trở về – trọn vẹn – trong sáng với thực tại được không? Khi đi kinh hành, làm mọi việc hoặc ngồi tại chỗ, Tâm con thường Phóng dật hoặc đi lang thang thì những lúc như vậy con thường hướng tâm nhắc: “Tâm phải gom về thân hành, thân làm cái gì thì tâm phải biết cái nấy, không được phóng dật ra ngoài, không được đi lang thang, phải gom về thân hành cho thật chặt”. Thưa Thầy, con dùng pháp tác ý như vậy có đúng không? Con xin thành kính tri ân Thầy!
Cũng được, con tự nhắc mình như vậy gọi là tư duy theo hướng tứ chánh cần, tất nhiên trong đó cần đặt tâm đúng hướng (như lý tác ý) thì tư duy mới trung thực được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Xin thầy giải nghĩa cho con hiểu bốn chữ “như lý tác ý” của Trưởng lão TTL, có giống với “thận trọng, chú tâm, quan sát” của thầy không? Cảm ơn lòng từ bi của thầy vì lợi ích hóa độ quần sanh!
Con không nên so sánh cách giảng dạy của vị này với vị khác. Nên hiểu thật kỹ định nghĩa của mỗi vị để thấu rõ pháp hành của những vị ấy. Trong “Thận trọng, chú tâm, quan sát” bao hàm tất cả tâm sở tịnh quang và đương nhiên có “như lý tác ý” theo nghĩa gốc của từ Yoniso manasikàra là ý hướng vào pháp thực tánh (như nó đang là), tức không hướng ý vào pháp khái niệm (tưởng là) trong Ayoniso manasikàra “phi như lý tác ý”. Tất nhiên không phải là “ra lệnh cho tâm bỏ điều ác” theo nghĩa “thắng giải” hoặc “quyết tâm” hơn là nghĩa “như lý tác ý”.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy, cho con hỏi. Pháp Như lý tác ý là như thế nào ạ? Con áp dụng vào cuộc sống và khi tu thiền thì con nên làm sao ạ? Con cảm ơn Thầy!
Như lý tác ý là tâm hướng vào cái thực không hướng vào ảo ảnh. Thí dụ khi thấy một điều gì thường có hai mặt, một là do như lý tác ý thấy mặt thực như nó đang là, hai là do phi như lý tác ý thấy mặt ảo như mình tưởng là. Vậy cần hướng tâm vào mặt thực tánh, không nên hướng tâm đến mặt giả tướng.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con xin kính đảnh lễ sư, con xin thành kính chúc sư gặp mọi chuyện an lành và sức khoẻ tốt.
Con có một người cô và cô có thắc mắc muốn hỏi:
1. Tu tập như thế nào và làm phước như thế nào để làm được người tam nhân? Khi làm phước phải có tâm như thế nào?
2. Khi làm phước mình biết mình đang làm phước và nghĩ việc này sẽ tạo cho mình rất nhiều phước báu và thật sự không có sự xả ly trong làm phước vì còn tham phước báu thì việc làm phước đó có tạo được cái thiện duyên hay thiện nghiệp không?
3. Khi làm phước và phát nguyện mong cho phước báu này là nền tảng cho con chứng quả vô sanh cho ngày vị lại. Sự mong cầu đó phải là có lòng tham trong làm phước không? hay là làm phước không có sự mong cầu hay phát nguyện gì mà chỉ chia phước mỗi khi làm đến tất cả chúng sanh và mong mọi người đều hoan hỷ và bình an.
4. Khi khởi tâm sân với một người nào đó, làm thế nào để kịp thời nhận ra tâm sân và mình có thể quay lại nhìn mình mà không chạy theo tâm sân và trả đũa lại người mình đang sân?
1) Tu tập với giới định tuệ và làm phước với tâm không tham sân si là người có tam nhân bây giờ cũng như trong tương lai. Thí dụ một hành động cúng dường hoặc giúp đỡ người khác với tâm hoan hỷ trong sự xả ly và vị tha do sáng suốt biết rõ nhân quả, thiện ác trong việc mình làm, đó là làm phước với tam nhân.
2) Nếu làm phước với tâm mong cầu được nhiều phước báu trong tương lai, không có tâm xả ly thì có thể xuất phát từ lòng tham nhưng ít ra cũng không xan (bỏn xẻn, keo kiệt), vì vậy người này vẫn được phước ít ỏi nhờ có cơ hội làm phước.
3) Tất nhiên làm phước với tâm xả ly và vị tha tốt hơn có mục đích mong cầu lợi dưỡng hay danh lợi cho cá nhân mình, nhưng làm phước có phát nguyện với mục đích giác ngộ giải thoát thì vẫn như lý tác ý (hướng tâm chơn chánh) – sáng suốt không mong cầu cho cái Ta vị kỷ – là tốt.
4) Khi sân có hai cách tiếp ứng: Cách trực tiếp quan sát là chỉ cần quay lại trọn vẹn cảm nhận cơn sân đó thì nó sẽ tự lắng dịu và biến mất. Cách gián tiếp đối trị là phát triển tâm Từ nhiều thì tâm sân sẽ dần dần giảm bớt. Đừng đợi cơn sân đến mới cố gắng loại trừ nó, mà phải thường thận trọng giác niệm thân tâm mới được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con đang tìm hiểu pháp hành Thầy hướng dẫn. Xin Thầy trả lời thắc mắc của con để con hiểu đúng lời dạy của Thầy.
1. Khi ngồi xuống thư giãn toàn thân không dụng tâm tìm kiếm đối tượng, khi có tâm niệm khởi lên thì lúc đó con có dụng tâm quan sát niệm này không ạ? (khi có đối tượng thì mình có dụng tâm quan sát đối tượng không?)
2. Khi đang ngồi có một cảm thọ đau ở chân lúc đó con thấy có hai cái biết riêng biệt:
+ biết cảm thọ, cái biết này khởi lên ở chân (thân thức)
+ cái biết ý thức hướng về cảm thọ đó, và khởi lên niệm đây là cảm thọ đau (cái ý niệm này khởi lên từ đầu)
Con Thấy như vậy có đúng không ạ và lúc con thấy như vậy cái gì là danh, cái gì là sắc ạ?
3. Khi ngồi buông thư có lúc con thấy có cảm giác nhức đau ở trên đầu.
+ Lúc đó nếu chỉ cảm nhận thôi thì dần dần đầu óc sẽ thư giãn dễ chịu
+ Nhưng khi có cảm giác nhức đau trên đầu thì ý thức tự hướng về điểm đau đó trên đầu (nó tự chú ý lên đầu), nếu để ý thức hướng về đó thì con bị nặng đầu khó chịu, lúc này con nên dụng tâm thế nào ạ?
Khi ý thức hướng lên điểm đau trên đầu thì con lại thư giãn buông cái lực hướng sự chú ý lên đầu đi con làm như vậy thì có đúng không ạ hay con đang đè nén tâm mình?
4. Con thấy khi ngồi buông thư, các tâm niệm, cảm thọ khởi lên sanh và diệt và bên cạnh đó có một cái ý đồ quan sát hay ý đồ dụng tâm thế này thế kia và tất nhiên sâu thẳm con nhận ý đồ đó là ý đồ của mình. Cái ý đồ đó có phải là cái ta ảo tưởng mà Thầy thường nói đến không ạ?
Con xin đê đầu đảnh lễ, cảm ơn Thầy ạ!
1) Không cố ý dụng tâm vẫn biết đối tượng, vì khi có đối tượng thì tâm tự khởi 7 biến hành tâm sở để nhận diện đối tượng một cách tự nhiên. Nếu có dụng ý riêng thì mất như lý tác ý (yoniso manasikàra). Còn nếu có dụng ý thì dụng ý chơn chánh mới tốt.
2) Thực ra lúc đó có 3 cái biết: thân thức, ý thức tiếp trợ, ý thức xử lý. Ba công đoạn này nhanh đến độ tưởng là cùng một lần, nhưng là tuần tự diễn biến. Cả 3 cái biết đều danh nhưng diễn ra trên thân là sắc.
3) Nếu con chỉ biết cơn đau đầu một cách vô tâm (không dụng ý hay dụng công) thì được, nhưng nếu con hướng ý thức vào đó (chú ý) tức đã có dụng ý biết hoặc giải quyết (rất vi tế khó thấy) thì vô tình tạo ra lực đối kháng nên chỉ cảm thấy đau hơn (mặc dù chưa hẳn đã đau hơn). Buông ý thức ra chỉ thấy thôi là tốt.
4) Ý khởi do thấy biết đúng (chánh kiến) là tốt, chỉ những ý khởi như tưởng là, cho là, phải là, sẽ là… mới xuất phát từ cái ngã ảo tưởng.