Kính thưa thầy!
Con rất thích hai câu thơ của Thầy:
“Tự do là ung dung trong ràng buộc.
Hạnh phúc là tự tại giữa khổ đau”
Thưa thầy, hai chữ “ràng buộc” trong câu đầu phải chăng là nhân quả, nghiệp duyên, hay một ý khác là định mệnh? Và tất cả các pháp sinh ra đều có tính tương tác, ràng buộc lẫn nhau trong một qui định chặt chẽ mà chúng ta không thể cố gắng thoát ra bằng bản ngã. Chỉ có như thị, chấp nhận không điều kiện, không động cơ, thì khi đó mới được tự do hoàn toàn?
Kính thầy khai thị cho con!
– Một là loại ràng buộc của pháp tự nhiên như con đã nói: “là nhân quả, nghiệp duyên, …là định mệnh (từ quả của nghiệp). Và tất cả các pháp sinh ra đều có tính tương tác, ràng buộc lẫn nhau trong một qui định chặt chẽ mà chúng ta không thể cố gắng thoát ra bằng bản ngã. Chỉ có (thấy) như thị, chấp nhận không điều kiện, không động cơ, thì khi đó mới được tự do hoàn toàn“.
– Hai là ràng buộc mà đức Phật gọi là kiết sử, triền cái, tức là các phiền não bên trong do bản ngã vô minh ái dục tạo ra. Giải thoát chính là thoát khỏi sự ràng buộc này. Như vậy, khi thoát khỏi sự ràng buộc của bản ngã tham, sân, si, ngã mạn, tà kiến, hôn trầm, trạo cử, nghi hoặc, thất niệm, bất giác, vô tàm, vô quí v.v… thì đồng thời có thể ung dung tự tại trong những ràng buộc tự nhiên giữa cuộc đời (loại ràng buộc thứ nhất). Vì vậy chư Phât, chư Thánh nhân, Bồ-tát mới ung dung tự tại như vậy. Các ngài không những có khả năng tự giác mà còn có thể vào đời, sống thuận pháp tùy duyên, thong dong vô ngại, với tâm nguyện vô ngã vị tha.
Tuy nhiên, cần lưu ý một điều: dù là ràng buộc của kiết sử hoặc triền cái, cũng không phải giải thoát bằng cách đem bản ngã tham sân si ra mà lăng xăng giải quyết hay tìm cách loại bỏ, diệt trừ theo quan niệm chủ quan, mà vẫn phải ung dung tự tại mới thấy ra được nó. Loại ràng buộc thứ hai này, thực chất chỉ là hư ảo do vọng tưởng của bản ngã tạo ra, nên không cần phải diệt mà chỉ cần thấy ra bằng trí tuệ (tuệ tri) trong chánh niệm tỉnh giác thì nó liền tự diệt. Hành thiền theo Vipassanà chỉ có nghĩa là thấy ra minh bạch chứ không cố gắng để giải quyết gì cả. Còn lấy nỗ lực của bản ngã mà giải quyết, diệt trừ thì chính là tạo tác trong quỹ đạo tham sân si, nên chỉ làm tăng thêm sức mạnh của ràng buộc mà thôi.
Ví dụ, khi ảo tưởng của bản ngã thấy sợi dây là con rắn liền phát sinh sợ hãi, rồi lại lăng xăng tìm cách giải quyết, hoặc diệt con rắn hoặc diệt sợ hãi. Hành động đó cũng là biểu hiện của bản ngã tham sân si nên chẳng giải quyết được việc gì. Nhưng chỉ cần trầm tĩnh sáng suốt (thái độ ung dung tự tại) nhìn kỹ thấy rõ sợi dây là sợi dây thì không cần lăng xăng giải quyểt gì cả mà con rắn và sợ hãi đều tự biến mất.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy.
Thầy dạy: “Vipassanà có nghĩa là thấy biết như thực, vậy không có gì để hành ngoài thấy biết trực tiếp và chân thực”, tương tự “trực chỉ” và “kiến tánh” trong Thiền tông.
Vài pháp thiền đang thịnh hành như “quán thọ” hoặc quán danh sắc (tâm thân) của vài thiền sư, tức là vẫn còn dùng phương tiện để đạt đến cứu cánh. Sự khác biệt cua hai khuynh hướng nầy, con nghĩ tùy căn cơ của Phật tử mà áp dụng.
Có những người thấy nhưng không thể nào biết như thật mà chỉ biết qua màn che của vô minh. Do đó con cảm thấy phương tiện vẫn cần trong những trường hợp nầy. Xin lãnh hội thêm từ Thầy. Chúc Hân.
Thấy biết như chân như thật, rõ ràng và trực tiếp là nguyên lý cốt lõi của thiền. Trong Thiền Tông thấy được nguyên lý này gọi là ngộ hay kiến tánh. Thiền Vipassanà gọi là tuệ thấy thực tánh pháp. Vậy người nào có khả năng thấy biết trực tiếp ngay trên thân, thọ, tâm, pháp thì người ấy không cần phải mất thời gian rèn tập qua phương pháp nào cả. Tất nhiên, người không có cách nào thấy pháp một cách trực tiếp thì đành phải đi lòng vòng theo phương pháp. Phương pháp cũng tốt miễn là đừng kẹt vào đó là được. Thường thì người ta bị kẹt vào phương pháp nên lúc đầu phương pháp rất hữu ích, nhưng về sau bị trì trệ không tiến được nữa.
Con là bác sĩ hẳn biết rất rõ điều này. Một người mạnh khỏe không cần dùng thuốc bổ, chỉ cần biết ăn uống và hoạt động điều hòa tự nhiên là được, chỉ khi nào bị bệnh hoặc suy dinh dưỡng mới phải dùng thuốc bổ. Nhưng khi dùng thuốc bổ đã được khỏe mạnh bình thường thì không nên uống nữa, nếu thấy tốt mà uống mãi thì sẽ mất đi nội lực tự sinh sẵn có nơi mỗi người, thậm chí còn sinh ra bệnh nữa. Nội lực đó chính là khả năng thấy biết như thật sẵn có nơi mỗi người. Nếu có thể sử dụng nó một cách trực tiếp thì không cần mất thời gian cho phương tiện nào cả. Sống thuận pháp ngay tại đây và bây giờ gọi là chánh pháp, áp dụng phương tiện để tu tập gọi là tượng pháp, không thoát khỏi được phương tiện gọi là mạt pháp. Đó là vấn đề căn cơ trình độ của mỗi chúng sanh.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy!
Sau khi tham gia Pháp hội của thầy, con không nhớ được nhiều, chỉ nhớ được điều ấn tượng và nổi bật nhất là tiếp xúc với Pháp một cách sáng suốt, định tĩnh và trong lành. Và từ khi đó, con nhìn cuộc sống, nghe âm thanh, … như một đứa trẻ thơ. Và có những lúc, con thấy một cảm giác hỷ lạc lạ thường xuất hiện. Một cảm giác hoan hỷ, lâng lâng thật khó tả. Nhưng rồi sau đó cái hỷ lạc đó lại biến mất. Vậy thưa thầy, thầy hoan hỷ giải thích giúp con đó là hiện tượng gì và khi gặp lại hiện tượng đó, con phải làm sao ạ? Con cảm ơn thầy!
Xem câu trả lời
Khi con thực sự sáng suốt, định tĩnh, trong lành một cách tự nhiên thì an lạc tự đến. Nhưng khi con cố gắng lặp lại sự an lạc đó thì bản ngã đã xen vào, lúc đó khó có được an lạc thật sự, và nếu có thì đó cũng chỉ là an lạc của bản ngã, nghĩa là không thật sự an lạc mà chỉ là một sự thoả mãn tham ái mà thôi. An lạc là thứ yếu, Thấy thực tại mới giác ngộ, giác ngộ mới an lạc giải thoát, chứ an lạc không phải là trạng thái sở đắc. Dù con đang phiền não khổ đau nhưng đủ sáng suốt, định tĩnh, trong lành để thấy thực tánh của phiền não khổ đau ấy, thì trong con không còn sự chọn lựa và đối kháng, nên không có tham ái, không bị căng thẳng, nghĩa là tâm vẫn an bình trong hiện tại, đó mới thật sự là an lạc. Con nhớ là chỉ thấy pháp thôi, đừng khởi tâm tìm kiếm lý tưởng để trở thành. Đó là bí quyết sống vô ngã thuận pháp.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy.
Con biết Phật pháp gần ba năm. Trong hai năm đầu con thường đi các chùa tụng kinh, dự các khoá tu. Con cũng tìm đến các chùa khác tông phái để xem mình thích hợp với cách tu nào. Dần dà tự tâm con không còn muốn đi chùa tập tu nữa mà chỉ ở nhà ngày hai buổi lạy Phật, đọc vài hồng danh Phật, Bồ Tát và thiền tập (định và quán), đọc những lời Phật dạy, quay trở vào trong và gột rửa dần những tập khí sâu dầy. Phát triển lòng từ bi vô vụ lợi. Con cảm thấy ngày càng an lạc trong cách tu nầy. Con xin Thầy đôi lời khuyên. Trong ánh Đạo.
Con là bác sĩ thuộc giới trí thức, nên thầy tin là con không đến với Đạo Phật chỉ với đức tin mà còn phải đầy đủ tín, tấn, niệm, định, tuệ. Đi chùa hay ở nhà t con thấy sao thích hợp cho sinh hoạt đời sống thực tế của con là được. Mọi việc nên tùy duyên không nên nhất định phải thế này hay thế khác. Cái gì thấy đúng thì làm, thấy sai thì sửa, vạn pháp là vô thường, không nên tạo ra cá tính hay phong cách riêng trong một nếp sinh hoạt tự mình hay do ai định sẵn. Vì như thế hữu ý hay vô tình rơi vào qui trình của bản ngã.
Việc thiền tập định tuệ hay chỉ quán thì con đã nghe thầy giảng rất kỹ ở Sydney vào cuối năm 2009 rồi. Thầy chỉ nhắc lại là định và tuệ luôn đi đôi không thể tách rời được. Ngay trong đời sống hàng ngày con biết sử dụng 3 yếu tố thận trọng, chú tâm, quan sát một cách nhuần nhuyễn tức là đã thực hành giới định tuệ đồng thời. Thiếu một trong 3 yếu tố trên thì sự tu tập sẽ mất thăng bằng, khó có thể giác ngộ giải thoát được. Cũng vậy, tín, tấn, niệm, định, tuệ luôn đi chung và phải thật quân bình, chỉ cần một trong 5 nền tảng đó quá mạnh hay quá yếu thì sự tu tập liền mất thế thăng bằng.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy.
Con đang ở Huế.
Con không có điều kiện được tu ở chùa. Con thấy cuộc sống đầy những khổ đau, con đã đau khổ. Con tìm thấy bình an ở những tác phẩm văn học Phật Giáo. Con muốn tu tập ở nhà nhưng con không biết bắt đầu từ đâu. Mong thầy chỉ dạy cho cho con.
Con nên đọc thêm kinh sách để có nhận thức đúng về Phật pháp. Hiểu đúng đạo lý thì tu tập mới có hiệu quả. Chỉ cần hiểu sai một ly trên giáo lý là tu tập sai đi một dặm. Con có thể vào mục Thư Viện để đọc sách, hay mục Pháp Thoại để nghe giảng ngay trên trang web này. Có điều gì không hiểu thì hỏi ở mục Hỏi Đáp. Con cũng nên xem lại những câu hỏi đáp trong mục này để trau dồi thêm giáo lý.
Nguyên tắc tu tập là luôn biết mình trong từng hành động, nói năng, suy nghĩ. Hễ quên mình là thất niệm, không biết mình là si mê. Không quên mình gọi là chánh niệm, biết mình là tỉnh giác. Hàng ngày hành động, nói năng, suy nghĩ đều chánh niệm tỉnh giác thì sẽ không có phiền não khổ đau. Để dễ thực hiện chánh niệm tỉnh giác con nên tập thận trọng, chú tâm, quan sát trong mọi sinh hoạt thân tâm tức là đã tu tập rất tốt. Đừng nên quá tin tưởng vào tha lực mà sinh ra mê tín dị đoan.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Xin Thầy giảng cho con hiểu 4 câu sau:
“Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính là đây.”
Vì sao hiện tại lại quan trọng hơn tương lai và nếu không có quá khứ thì sao lại có hiện tại?
Cám ơn Thầy.
Xem câu trả lời
Mặc dù có quá khứ, hiện tại, vị lai, nhưng quá khứ đã qua rồi, tương lai thì chưa đến, chỉ còn pháp hiện tại là đối tượng thật sự đang hiện hữu để chúng ta có thể thấy biết, điều chỉnh hay xử lý mà thôi. Ví dụ khi con đi qua một cây cầu khỉ nếu con không thận trọng, chú tâm, quan sát vào hoàn cảnh hiện tại thì con sẽ bị té xuống mương ngay, lúc đó quá khứ tương lai không thể cứu con được.
Không phải hiện tại quan trọng hơn quá khứ tương lai, nhưng quá khứ chỉ có thể là bài học kinh nghiệm cho hiện tại, còn tương lai thì lại tùy thuộc vào những gì chúng ta đang làm trong hiện tại. Như vậy cần phải thận trọng, chú tâm, quan sát hiện tại để học ra bài học thiết thực của mình. Một học sinh cứ muốn học bài lớp trước, hoặc mong học bài lớp sau thì làm sao thông suốt được bài vở của mình trong lớp em đang học? Muốn có tương lai em ấy phải học bài học hiện tại ở lớp mình cho thông mới được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy, con xin hỏi, một người trên bước đường tu tập, tự bản thân họ có thể biết trình độ tu tập của họ tới mức độ nào không? Con cám ơn Thầy.
Xem câu trả lời
Nếu một người biết chánh niệm tỉnh giác, tức luôn thận trọng, chú tâm, quan sát chính mình thì có thể tự biết trình độ tu tập của mình. Trong tu tập, khám phá chính mình để thấy ra đâu đúng đâu sai, đâu chân đâu giả, v.v… thì người đó đồng thời cũng khám phá ra căn cơ trình độ của mình. Những phương pháp tu hướng ngoại, hoặc chỉ mong cầu ở sở đắc trong tương lai hay ở một nơi nào khác thì khó biết được trình độ của minh. Còn người thấy ra đâu là pháp, đâu là ngã, đâu là tập khí sinh tử thì họ có thể thấy ra căn cơ trình độ tu tập của mình một cách dễ dàng.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con kính đảnh lễ Tam Bảo. Kính bạch Sư Viên Minh. Câu thắc mắc thứ nhất của con là: Có phải do người viết sách hay nên người đọc thích thú, hay là do một nhân duyên gì khác tiềm tàng trong quá khứ mà nay đã đủ nhân đủ duyên nên con đã đến với Giáo Pháp? Con cũng đã từng đọc nhiều sách truyện của nhiều tôn giáo, Phật Giáo cũng có mà chưa từng có một tác động mạnh như một quyển sách con từng đọc qua và sau khi đọc xong con đã phát nguyện quy y Phật, Pháp, Tăng! Con hiểu được một điều là cho dù là người viết sách hay hoặc là do nghiệp quá khứ gì thì cũng không phải là vấn đề quan trọng lắm, mà tất cả điều do nhân duyên tạo tác….không biết con hiểu vậy có sai không thưa Sư? Thắc mắc thứ 2 của con là: con thường suy nghỉ nếu sống biết đủ và không tham vọng hay ước mong cao sang, mà chỉ chú tâm vào hiện tại, an vui trong kiếp sống hiện tại và hành những pháp mà trong Kinh điển cố ý nhắn nhủ, tập cái tâm như đất, nước, lửa, gió và biết nhẫn nại, nếu có ai làm hại mình hoặc nói lời không đúng thì quán tưởng đó là nghiệp, là thử thách cũng như Đức Phật thời xưa gặp vậy, vì tất cả hành động điều cho ra quả …, không biết con hiểu như vậy có sai không, xin Sư từ bi chỉ dạy. Câu thắc mắc thứ 3 của con là: Muốn giải thoát sinh tử luân hồi có cần học Vi Diệu Pháp không? Con chân thành tri ân Sư chỉ dạy. Kính chúc Sư thân tâm thường lạc.
1) Con hiểu nhân duyên như thế cũng đúng. Mọi chuyện đều do nhân duyên mà có. Ví dụ như nhờ đã từng tu học (nhân quá khứ), nay gặp sách viết hay (duyên hiện tại) mà người đọc thức ngộ (nhân hiện tại); lại do trình độ người đọc hợp với người viết (có duyên trong quá khứ) v.v.
2) Tu chính là thường chánh niệm, tỉnh giác đối với hiện tại, không ước vọng cao xa, dù là những sở đắc trong tu tập. Cái gì đến với mình đều có liên quan với nhân quả nghiệp báo. Có tinh tấn, nhẫn nại để lắng nghe, quan sát, chiêm nghiệm một cách khách quan thì mới thấy ra bản chất thật của chúng, từ đó thiện pháp sẽ tự tăng trưởng, bất thiện pháp sẽ tự đoạn giảm.
3) Quan trọng không phải ở chỗ có học hay không học Vi Diệu Pháp mà là thái độ học hay không học đó như thế nào. Nếu học chỉ để thu thập kiến thức mà không thấy được thực tánh pháp thì chẳng bằng không học mà thấy ra sự thật.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con có 1 câu hỏi xin quý thầy hoan hỷ: Hiện nay con không biết ở Việt Nam có vị thầy nào đã đạt đến giác ngộ như các vị cao tăng Hám Sơn, Trí Giả, Đạt Quán,… không? Có vị nào đã đạt đến cái tịch tĩnh của chân tâm thường trụ hay chưa? Nếu có xin quý thầy hoan hỷ cho con biết pháp danh và chùa nơi các vị ấy tu hành. Mục đích của con là muốn tham vấn học đạo. Nam Mô A Di Đà Phật.
Học đạo tùy thuộc vào sự thành tâm cầu Pháp và trình độ căn cơ của người học Pháp. Nếu người học Pháp trình độ căn cơ non kém thì dù gặp bậc thánh hiền cũng không học được gì ở họ. Ngược lại, người có căn cơ trình độ thâm hậu thì có thể học hỏi Phật Pháp từ bất cứ đối tượng nào. Hơn nữa, còn tuỳ phước của mỗi người có được gặp các bậc thiện trí thức hay không và khi gặp vị ấy có hợp duyên hay không mới được. Trong kinh kể rằng có nhiều người Đức Phật độ không được mà đệ tử Phật lại độ được đó chính là vì hợp duyên với nhau. Trong Jataka có kể câu chuyện Bồ Tát tiền thân của Đức Phật Thích Ca đổi mạng sống để học một câu Phật ngôn từ một con Quỷ dạ xoa. Con không nên bỏ công đi tìm thiện trí thức mà chỉ cần thường chánh niệm chánh giác để tìm ra chính mình. Chúc con an lạc.