Kính thưa Thầy,
Trong mục hỏi đáp này có lần Thầy đã trả lời như sau: “Trong thiền tuệ hay thiền quán thì nên theo dõi động tác thở toàn thân, vì như vậy tâm không rơi vào định, mà chỉ thấy trạng thái diễn biến vô thường sinh diệt của động tác thở mà thôi”. Con xin Thầy từ bi chỉ dạy: “Theo dõi động tác thở toàn thân” thì thực hành như thế nào?
Con thành kính tri ân Thầy.
Xem câu trả lời
Con lại muốn có một phương pháp để thực hành nữa rồi! Không nên lệ thuộc vào một phương tiện bên ngoài, hãy tập trực diện với những thực kiện đời sống bên trong. Động tác thở là một sự kiện đang diễn ra nơi con, rất rõ ràng, không phải là điều gì xa lạ mà phải lăng xăng tìm kiếm. Do tâm buông lung phóng dật luôn lang thang hướng ngoại tìm cầu ảo ảnh, nên không biết sự kiện thở dang diễn ra ngay nơi thực tại thân tâm. Vậy đơn giản là biết mình đang thở thì đã trở về với thực tại chính mình rồi. Không buông lung phóng dật tức là tinh tấn, không lang thang hướng ngoại tìm cầu để đánh mất chính mình (thất niệm) tức là chánh niệm, soi rõ lại chính mình tức là tỉnh giác. Khi trở về trọn vẹn trong sáng với thực tại thân tâm thì tâm liền thấy thân đang diễn ra trong động thái thở (trạng thái của động tác thở trên toàn thân). Càng giản dị càng trực tiếp càng dễ thấy pháp. Đơn giản chỉ có vậy thôi.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính Thưa Thầy cho con xin hỏi:
1. Tu là để chiêm nghiệm để thấy ra đâu là sự thật đâu là ảo tưởng để không dính mắc. Vậy trí tuệ phát sinh từ đâu để có thể diệt trừ tận gốc vô minh ái dục, vì con nhận thấy rằng khi con suy nghĩ về một vấn đề nào đó trong cuộc sống quá nhiều đến mức nhận thấy mọi chuyện đều là do Pháp vận hành, mọi suy nghĩ của mình đều chẳng đi đến đâu cả để rồi từ đó mới từ bỏ suy nghĩ để tâm rỗng lặng trong sáng, nếu con quan sát tâm để nhận thấy tâm sinh diệt thì những điều này sẽ còn tái đi tái lại rất nhiều lần. Con biết rằng khi phân biệt hay phán xét vẫn là thông qua bản ngã nhưng khi không thể tìm ra câu trả lời thì tâm sẽ tự động sẽ buông xả. Vậy kính mong Thầy chỉ cho con biết đâu là pháp hành đúng?
2. Theo con được biết khi hành thiền Vipassana thì trí tuệ phát sinh là theo thứ tự cụ thể. Vậy thì khi con thực hành theo lời Thầy chỉ dạy thì trí tuệ phát sinh ra sao?
3. Cho con hỏi như khi nhìn một người chỉ thấy là các đặc tính của đất, nước, gió, lửa thì đó vẫn chỉ là phương pháp mà thôi phải không Thầy? Vì thấy cũng chỉ là thấy mà thôi.
Con cảm ơn và kính mong được sự chỉ dạy của Thầy và chúc Thầy sức khỏe.
1) Con cứ để tự nhiên mà thấy biết thì rồi mọi pháp sẽ được rõ ràng mà không cần lý luận hay khẳng định điều gì cả. Khẳng định chính là hành trạng của vô minh. Pháp hành đúng là thấy pháp như nó là. Thấy pháp như nó là chính là minh, là trí tuệ.
2) Trong pháp hành “tánh biết tự thấy pháp” hay “tùy duyên thuận pháp” thì trí tuệ đã tự chiếu rồi nên dĩ nhiên các tuệ tự động tiến hành một cách tự nhiên và nhanh hơn rất nhiều so với những pháp hành theo phương pháp chế định trong đó có cái ta khởi ý niệm hành và quy định đối tượng để hành.
3) Nếu tánh biết tự thấy tính chất đất nước lửa gió một cách tự nhiên thì vẫn thấy như thực thấy, còn nếu đem khái niệm đất nước lửa gió để gán vào cái thấy về một người thì đó vẫn là vọng tưởng!
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con xin cám ơn Thầy. Những sự nhận biết này rất tinh tế. Con sẽ tiếp tục quan sát. Con kính chúc Thầy mọi điều an lạc.
Xem câu trả lời
Bí quyết của thiền Vipassanà là tánh biết tựthấy pháp chứ không phải cái ta biết (năng tri)cố gắng ghi nhận (?!) đối tượng (sở tri) như nhiều người thường “hành”. Cái ta biết không bao giờ có thể tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác được. Vì mọi cố gắng của cái ta biết dù tốt hay xấu đều nằm trong lãnh vực tục đế nghĩa là không bao giờ thấy được chân đế, và dù cái ta biết nỗ lực “chánh niệm tỉnh giác” tới đâu thực chất cũng vẫn là… thất niệm bất giác mà thôi! Con cần nhớ điều này: bản chất của pháp và tánh biết là hoàn toàn tự nhiên, không do cái ta ảo tưởng dàn dựng để tạo tác với mong muốn trở thành.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính Thưa Thầy cho con hỏi:
1. Danh và Sắc đều là do nhân duyên sinh khởi vậy thì tính cách, sinh nghiệp hay số mệnh của một người cũng đều như vậy. Cho nên khi một người có tính cách không tốt không phải là vì họ như thế mà là do vô minh và vì thế nên “Không có ai cả”. Điều người tu cần phải làm là quán xét để thấy rõ sự thật, không còn dính mắc chứ không cần phải thay đổi làm gì, vì thay đổi là còn có mong muốn có phải như vậy không thưa Thầy?
2. Tu cốt yếu là ở Tâm chứ không phải ở Tướng, vì Tâm làm chủ, có tạo nghiệp, có giải thoát được hay không cũng là ở nó. Khi Tâm không còn dính mắc thì đó là Niết Bàn, tịch tịnh, vô vi, vô tác, vô cầu có phải không thưa Thầy?
Con xin cảm ơn Thầy đã chỉ dạy và tiếp tục mong được sự chỉ dạy của Thầy. Con cảm ơn Thầy và chúc Thầy sức khỏe!
1) Không phải tất cả Danh và Sắc đều do nhân duyên khởi, chỉ khi chúng bị thiết lập quan hệ tạo tác mới do nhân duyên khởi. Tất nhiên trong Danh Sắc “không có ai cả”, Danh tự biết Sắc không có người biết và vật được biết, cũng không có người đắc và vật đắc được (sở đắc), chỉ có pháp đang vận hành. Có thay đổi nhưng đó là sự chuyển hóa tự nhiên, không phải là ý đồ thay đổi để trở thành.
2) Đúng. Nhưng khi tâm tịnh thì tướng cũng tịnh. (Khi tâm thanh tịnh thì thấy tất cả pháp đều thanh tịnh). Tâm bị cái ta ảo tưởng chiếm cứ thì vô minh ái dục, luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau; tâm không bị cái ta ảo tưởng chiếm cứ thì ngay đó là Niết-bàn “Tịch tịnh siêu lạc” (Santì paramam sukham).
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy!
Con vô cùng vui mừng khi được thầy chỉ dạy. Giờ đây con đã hiểu điều chỉnh thái độ của mình đối với sinh nghiêp mới là quan trọng. Nếu mình điều chỉnh thái độ theo hướng tích cực và hướng thiện thì không những mình có được cuộc sống ung dung tự tại mà còn tạo được nhân tốt cho quả tương lai. Nhưng con vẫn còn một băn khoăn xin được phép hỏi thầy. Con thường nghe nói: tính cách tạo nên số phận. Một người không chịu chấp nhận mà chống đối lại số phận, bỏ qua tất cả lời khuyên can của bạn bè và cuối cùng thu được toàn thất bại thì phải chăng đó cũng là số phận của họ? Trong trường hợp này con nên làm gì để giúp họ?
Con xin cám ơn thầy đã lắng nghe! Kính chúc thầy sức khoẻ. Con mong thư của thầy!
Tính cách được hình thành từ thái độ, nói cách khác tính cách là thái độ đã được khẳng định hay đã tạo thành nếp, và vì vậy chính tính cách của một người tạo ra số phận người đó. Điều này vẫn đúng với nguyên lý nhân (thái độ) quá khứ tạo ra quả (trạng thái) hiện tại, và nhân hiện tại (tính cách hay thái độ) hình thành hậu quả (số phận) tương lai.
Nói cho dễ hiểu, tính cách hay thái độ của một người tạo ra đau khổ, hạnh phúc hay giải thoát cho bản thân người đó. Vậy hậu quả khổ đau giúp cho người ấy thấy ra nguyên nhân của nó và học ra bài học nhân quả để từ đó biết tự điều chỉnh nhận thức và hành vi của mình. Không ai khuyên can tốt hơn là hậu quả của nghiệp. Chỉ những người đã trải nghiệm khổ đau mới biết mình đã sai lầm như thế nào. Phật cũng chỉ khai thì thôi còn Pháp mới là bài học quý giá để mỗi người thấy ra sự thật.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy, con xin cúi đầu cảm ơn thầy đã trả lời con bằng tất cả lòng từ bi. Con xin hỏi thêm một câu là có đôi khi con có cảm giác khi tu hành, là mình đang rèn luyện có một thái độ sống khác, có một cách nhìn cuộc đời khác, để không còn thấy khổ đau nữa. Con suy nghĩ như vậy không biết có đúng không, con xin thầy từ bi giảng giải cho con.
Xem câu trả lời
Không phải đâu con. Tu hành chính là thấy ra sự thật khổ là khổ. Nếu có khác là khác cái nhìn của thế gian tưởng khổ là vui, hoặc đắm chìm trong vui nên không thấy khổ. Ví dụ một người ghiền ma tuý hay mê chơi game chẳng hạn. Tu hành là điều chỉnh nhận thức và hành vi cho đúng với nguyên lý đích thực của đời sống. Người giác ngộ thấy ra bản chất thật của đời sống nên không chạy theo ảo tưởng, nhờ vậy mà dù ở trong cảnh khổ tâm họ vẫn an lạc. Nhưng đúng là có không ít quan niệm tu hành hay phương pháp tu luyện cố gắng tránh khổ tìm lạc, nhưng đó là lẩn tránh sự thật, không phải là cái nhìn Chánh kiến của Phật giáo.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Ngưỡng bái bạch Hoà Thượng,
Thời gian qua nhờ học theo những lời dạy của Hoà Thượng mà con đã tìm được hướng đi đúng đắn cho con trong sự tu tập, cũng như trải nghiệm được rất nhiều điều trong cuộc sống.
Hiện con đang tu tập cùng 1 nhóm Phật tử khoảng 30 người. Từ trước tới nay họ chuyên tu pháp môn Tịnh Độ, niệm Phật cầu vãng sanh. Thời gian đầu, con vẫn theo trình độ của họ mà hướng dẫn tu. Và dần về sau, con đã kết hợp giữa thiền Tuệ và niệm Phật để hướng dẫn cho họ.
Thời gian đã trải qua gần 1 năm rồi, nhưng con thấy họ vẫn cố chấp giữ chặt quan điểm “chỉ niệm Phật cầu vãng sanh mà thôi”. Thế nhưng, trong cuộc sống hàng ngày họ vẫn luôn bị hoàn cảnh chi phối, đã chạy theo cảnh mà còn làm cho tâm bị tổn thương. Họ vẫn chưa thấy ra được giá trị thật sự của đau khổ, của phiền não, mặc dù con đã hướng dẫn rất nhiều.
Con luôn nhớ lời Thầy dạy là: sống “tuỳ duyên thuận pháp”, không “phan duyên thuận ngã”. Vì thế mà con nghĩ rằng: nếu họ đang đau khổ, phiền não thì cứ để cho họ đau khổ, cứ phiền não rồi sẽ thấy ra sự vận hành tự nhiên của Pháp.
Thế nhưng Thầy ơi, tới bây giờ con cảm thấy vô vọng vì đã mất quá nhiều thời gian. Thầy vẫn thường dạy chúng con: “nếu đã ngộ thì không qua thời gian”. Nhưng có lẽ nhóm Phật tử này do cố chấp quan điểm niệm Phật cầu vãng sanh nên con khó có thể giúp họ “thấy” được sự vận hành của Pháp một cách tự nhiên và hoàn hảo.
Con kính trình lên Hoà Thượng. Vì đối với con đây là 1 vấn đề nan giải. Con rất ít khi tiếp xúc với Phật tử. Tuy đã tu học hơn 20 năm ở Ni trường nhưng đây là lần đầu tiên con va chạm thực tế. Có lẽ con không quen với đời sống thế tục nên con thấy có nhiều việc khiến con bận lòng.
May nhờ thời gian qua con học và hành được từ những lời dạy của Hoà Thượng nên đã hiểu thêm nhiều.
Con kính trình lên Hoà Thượng và mong Hoà Thượng chỉ dạy cho con phải làm sao.
Con xin đảnh lễ và kính chúc Hoà Thượng Thân Tâm thường lạc.
Có lẽ con cảm thấy vô vọng vì con muốn họ mau thấy ra lẽ thật vi diệu trong sự vận hành tự nhiên của pháp, nhưng căn cơ trình độ của họ chưa tới thì làm sao nhận ra được sự thật này. Vậy thì chính mong muốn ấy của con là chưa đúng thực tế, nó tạo ra thời gian và làm con mất nhẫn nại. Con đừng xem việc hướng dẫn người khác là phải giúp họ đạt được một tiêu chuẩn nhận thức và hành vi nhất định nào, mà còn thấy rằng đó cũng là cơ hội để bản thân con học ra bài học của chính mình – bài học về sự nhẫn nại, từ bi, cảm thông và trí tuệ thấy rõ căn cơ trình độ của mỗi người.
Mặt khác, không phải riêng pháp môn Tịnh Độ mà bất cứ pháp môn nào đã vận dụng thành phương tiện hay phương pháp chế định thì dù thiện xảo tới đâu cũng đều rất dễ rơi vào tình trạng cố chấp và lệ thuộc khuôn mẫu định sẵn, mất hết tính sáng tạo tự nhiên và biến hóa vô cùng của pháp. Ngay cả thiền Kiến Tánh và thiền Vipassanà cũng bị người sau biến thành những phương pháp chế định để rồi phân hóa ra nhiều trường phái cục bộ mà mỗi trường phái đều cố chấp vào phương pháp riêng của mình. Chính sự phân chia của các phương pháp thiền trên bình diện chế định mà người ta chỉ đạt được những kinh nghiệm cục bộ như người mù rờ voi, không thấy được tính toàn diện của thực tánh chân đế. Bởi vậy mới gọi là thời mạt pháp! Mạt pháp thì đành vậy con chán nản làm gì!
Ngày gửi:
Câu hỏi:
CON XIN KÍNH LỄ THẦY! Trước giờ con có những điều hiểu lầm: nghe nói càng tu trí tuệ càng bén càng nhạy nên con tập lý luận, tập phản ứng. Mỗi khi nói chuyện với ai con cũng tỏ ra bản lãnh của mình hoặc là châm chích khều móc làm cho người khác khó chịu con càng thích.
Sau này con gặp lại 1 người bạn, đồng tu cũ sau khi chào hỏi nói chuyện, anh ấy nhắc khẽ con rằng: người ta càng tu thì càng nhụt càng mòn, sao chú càng tu cái móc càng bén thế! Nghe nói thế con rất tự hào cho là mình tiến bộ.
Vừa rồi có người giới thiệu con vào trang web của Thầy để đọc sách nghe giảng. Đến mục hỏi đáp này, xin Thầy chỉ dạy quan niệm tu hành của con như thế là đúng hay sai?
CON XIN KÍNH LỂ VÀ TRI ÂN THẦY!
Trí gồm có 2 phương điện: Lý trí và trí tuệ. Những điều con phát triển thuộc về lý trí chứ không phải trí tuệ. Lý trí chỉ có thể phân biệt được pháp chế định tục đế (sự thật tương đối do con người quy định), không thể thấy được pháp thực tánh chân đế (sự thật rốt ráo trong bản chất tự nhiên của pháp).
Trí tuệ chỉ khai mở khi không còn bị lý trí vọng thức che lấp, do đó Lào Tử nói: “Trí giả nhược ngu” (Có trí y như là ngu vậy), và Ông nói muốn có trí tuệ thì phải: “Tỏa kỳ nhuệ, giải kỳ phân” (nhụt trí sắc bén, bỏ tâm phân chia). Trong Phật giáo, bị kiến thức của lý trí che lấp không thấy được thực tánh gọi là sở tri chướng. Một vị Tăng học hỏi kinh điển đầy mình nhưng đầu óc luôn đầy ắp những vấn đề mâu thuẫn, đến khi quên hết ông ta mới thấy lòng rỗng lặng trong sáng, ủa thì ra bây giờ mình mới thấy mọi sự mọi vật như nó là, ông thốt lên bài kệ chứng ngộ:
Giáo pháp lưu truyền tám vạn tư
Học hành không thiếu cũng không dư
Năm nay tính lại chừng quên hết
Chỉ nhớ trên đầu một chữ NHƯ!
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy,
Nhờ duyên lành mà con đã được gặp thầy để nghe những lời chỉ dạy hết sức quý giá giúp khai thị cho con thấy ra được cái tham, sân, si vi tế trong tâm của mình. Nhưng từ khi thấy ra vô thường, khổ, vô ngã. Tâm con có nhiều xung đột (con biết điều này là điều tất yếu phải đến, trong quá trình gột rữa làm sáng tỏ thực tánh chân thực trong mỗi người) giữa những mục tiêu bên ngoài và nỗi niềm hướng thiện bên trong. Từ khi biết đến chánh pháp, con đã buông bỏ việc chạy theo những mục tiêu bên ngoài (như danh vọng và lợi lộc), nhưng giờ đây khi làm công việc gì con suy xét tường tận thì công việc vẫn buộc con phải vì tư lợi (lợi ích của công ty con làm). Con vẫn còn trẻ và vẫn muốn đóng góp sức mình làm việc lợi lạc cho xã hội, nhưng những công việc xung quanh con đều được đặt để mục tiêu và vì vụ lợi. Con thường nghĩ, phải chi có một xã hội mà ở đó con người làm việc theo năng lực và hưởng theo nhu cầu chính đáng. Mọi người đều làm việc với lòng nhiệt thành và vì muốn được đóng góp cho xã hội. Khi đó con người không phải phát sinh thêm những người làm nhiệm vụ kiểm tra, giám sát. Ở đó sẽ không còn phân biệt giàu nghèo vì không còn ai muốn giữ tài sản cho riêng mình. Ở đó cũng sẽ không có người đói khổ và tất cả người bệnh đều được điều trị tận tình như nhau. Tại sao con người không dẹp bỏ cái ngã đễ chung tay xây dựng một xã hội tràn ngập lòng nhân hậu? Thấy chỉ dạy giúp con đễ làm sao sống trọn vẹn với chính mình, không còn sự xung đột giữa những mục tiêu trong nội tâm và mục tiêu bên ngoài. Con xin chúc thầy được nhiều sức khỏe!
Thực ra khi con thấu triệt và chuyển hóa được những xung đột bên trong thì những xung đột do mục tiêu bên ngoài đem lại không còn là vấn đề nữa. Đời sống xã hội luôn có hai mặt như thăng – trầm, được – mất, hơn – thua, vui khổ… Mục tiêu của sự biểu hiện sinh khắc của hai mặt âm – dương giữa cuộc đời này chính là để cho con người có cái nhìn toàn diện (bất nhị) hầu giác ngộ ra bản chất của mình và cuộc sống, chứ không phải chọn mặt này bỏ mặt kia để rơi vào cái nhìn phiến diện, cục bộ và một chiều (nhị nguyên).
Hạnh phúc không đạt được khi loại bỏ một mặt để giữ lấy mặt kia hoặc loại bỏ cả hai, mà là vượt lên cả hai mặt ấy. “Vượt lên” cũng đồng nghĩa với ở giữa (trung) hai mặt mà vẫn sống ung dung tự tại không lấy bỏ, không chấp trước, không bị ràng buộc trong đối đãi nhị biên. Xã hội là tập hợp bởi những cá nhân vì vậy chỉ khi mọi cá nhân đều giác ngộ thì xã hội mới có thể an bình thực sự. Nhưng đó chỉ là một giả thuyết, do đó ý tưởng xã hội lý tưởng của con hầu như chỉ có trong những chuyện “Liêu Trai” chứ chưa bao giờ hiện thực.
Khi con khởi lên một ý tưởng thì đã hình thành nhị nguyên rồi (Nhất niệm khởi thiện ác dĩ phân), mà nhị nguyên tất mời gọi sự đối nghịch, nghĩa là tất yếu phải có ít nhất là một ý tướng đối kháng lại. Ví dụ như một người sẽ nói rằng: “Liệu một xã hội thuận chiều như vậy thì sẽ chỉ có sinh không có khắc, làm sao có sự tiến hóa được”. Thế là cuộc đời lại nảy sinh ra hai phía đối địch! Và rồi mọi việc vẫn y như cũ. Đức Phật nói: “Tâm bình thế giới bình”. Nếu con chưa thực sự thấy thế giới đang an bình như nó là, thì hiện thực của cuộc sống đang giúp con học ra sự an bình trong thái độ sống của chính con đó.