Câu hỏi:
Con thưa thầy, con biết tới đạo cũng được một thời gian, nhưng chưa chú tâm lắm. Thầy cho con hỏi con nên bắt đầu tu tập từ đâu ạ. Con cám ơn thầy ạ
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiDanh sách các chủ đề phổ biến
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiBắt đầu từ nhìn lại chính mình. Khi hướng ra bên ngoài mà không biết mình thì bị ngoại nhân, ngoại cảnh chi phối, làm tâm phân tán, bất an và mất dần khả năng chú tâm, tự tại. Chú tâm là tâm trọn vẹn với thực tại đang là (tự tại), khác với tập trung là chỉ chú ý vào một đối tượng. Trở về trọn vẹn tỉnh thức với diễn biến hoạt động của thân, của cảm giác, cảm xúc, của phản ứng nội tâm trong sự tương giao hay mối quan hệ với người hoặc việc trong hiện tại mới không bị phân tâm.
Quá khứ, vị lai và bên ngoài là 3 điều dễ xen vào làm mất sự trọn vẹn với chính mình trong hiện tại, vì vậy muốn trọn vẹn tỉnh thức với hiện tại con nên thận trọng chú tâm quan sát mọi diễn biến trong thân tâm khi tiếp xúc với người, việc hoặc cảnh bên ngoài. Thường người ta ngồi “thả hồn trong mộng” hoặc để tâm “phan duyên ngoại cảnh” đó là buông lung phóng dật, yếu tố trực tiếp hủy hoại sự trọn vẹn tỉnh thức trong thực tại. Thận trọng chú tâm quan sát chính là thiền Minh Sát.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiPhải, thực ra các pháp tuy có tương sinh tương khắc nhưng không bao giờ chướng ngại lẫn nhau, chỉ có tâm sinh ưa ghét, lấy bỏ rồi tự tạo vướng mắc mà thôi. Do đó đức Phật dạy chỉ thấy biết mà không nương tựa, không bám víu bất kỳ điều gì ở đời, tức “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” thì sẽ an nhiên tự tại, không gì phiền khổ cả.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiCon chỉ cần biết thôi, có bản ngã biết có bản ngã, không có bản ngã biết không có bản ngã, có ý muốn biết có ý muốn, không có ý muốn biết không có ý muốn v.v… như vậy mới thấy ra thân tâm đang vận hành như thế nào. Con phân vân là liền mất sự thấy biết trung thực đó.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiTất nhiên là rơi vào cả đoạn kiến lẫn thường kiến. Người lệ thuộc vào lý tưởng vì không thấy rằng mục đích sống ở ngay nơi sự sống đang là. Trở về trọn vẹn với thực tại thì thấy ra lý tưởng đã ở đó tự bao giờ.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiCon giỏi thật, có thể diễn tả tâm trạng khá chi ly khúc chiết, như một nhà văn về môn tâm lý học hoặc phân tâm học vậy đó. Có điều việc so sánh hai “kênh” của con chưa đúng lắm, và có lẽ vì vậy con cảm thấy lúng túng khi cho rằng một là phải “vào khuôn” hai là buông theo “ngựa quen đường cũ”. Hai kênh kiểu đó có vẻ giống như con đang xem hai kênh cùng một lúc trên hai TV khác nhau thì đúng hơn: Một kênh bên TV này đang diễn bi hài kịch rất sống động, một kênh bên TV kia chiếu cảnh hoang sơ rất tĩnh mịch. Nhưng vì con phải nhìn qua nhìn lại, bên nào cũng hay nên đâm ra phân vân chọn lựa và hậu quả là không xem được bên nào trọn vẹn, xem bên này thì mất bên kia, mà con thì không muốn bỏ bên nào! Ôi, cuộc đời thật khó khi phải bắt cá hai tay, đúng không? Tâm trạng của con là thế đấy!
Thầy sẽ đưa ra hai kênh khác để tùy con chọn lựa, chọn kênh nào tùy con, kênh nào con cũng đều học được bài học quý giá của nó, vì tuy hai kênh nhưng cùng diễn duy nhất một sự kiện mà thôi. Kênh thầy nói đây không phải là hai kênh hai sự kiện khác nhau, mà là hai thái độ khác nhau khi nhìn về cùng một sự kiện. Sự sống chỉ duy nhất một kênh “thực kiện” đang là cho mỗi người mà thôi, còn kênh kia chỉ toàn là “ảo ảnh” mộng mơ. Thí dụ như con đang lái xe thì việc lái xe là thực kiện của sự sống đang diễn ra tại đây và bây giờ. Nếu con biết thận trọng chú tâm quan sát vào thực kiện đang lái xe, thì con sẽ lái an toàn thoải mái, suôn sẻ, không bị chi phối bởi điều gì thì sẽ không phân tâm mệt mỏi, và tất nhiên sẽ không gây ra tai nạn, đó là kênh thứ nhất. Nếu con vừa lái lái xe (thực kiện duy nhất đang là) vừa nghĩ đến yêu đương hay thù hận nơi một ảo ảnh quá khứ, tương lai nào đó, hoặc con bị thu hút vào một hình ảnh hấp dẫn bên ngoài thì con đang rơi vào kênh thứ hai (không phải là sự kiện hiện thực mà chỉ là mộng ảo). Sự sống luôn đồng nhất nơi thực tại đang là, duy nhất một kênh, chỉ có thái độ sống mới phân tâm, đa kênh, đa hệ.
Có thể con hiểu chưa chính xác từ buông, từ thực tại (sự sống) ngay đây và bây giờ, và cụm từ thận trọng chú tâm quan sát chăng? Con xem buông là từ bỏ kênh “mặc định” của đời sống. Nhưng thế nào là “mặc định” của đời sống do tâm trí quy ước và thế nào là “mặc nhiên” của đời sống được vận hành theo nguyên lý của pháp. “Mặc định” cũng có hai loại: Mặc định đúng tốt và mặc định sai xấu. Thận trọng chú tâm quan sát là để phát hiện ra đâu là mặc định, đâu là mặc nhiên (chân tánh) của đời sống, và nếu là mặc định thì đó là mặc định đúng tốt hay sai xấu, chứ không phải “muốn khổ thì cứ đế yên kênh ‘mặc định’ vậy mà khổ, muốn xả hơi thì bấm kênh ‘thận trọng chú tâm quan sát’ thì được xả hơi” như con nói. Con có thể phát triển mặt “mặc định” tích cực đúng tốt của đời sống bằng cách thận trọng chú tâm quan sát để không rơi vào mặt “mặc định” tiêu cực sai xấu thì vẫn được hạnh phúc, đâu phải mặc định nào cũng khổ. Dù là “mặc nhiên” con cũng cần thận trọng chú tâm quan sát để thấy ra sự sống động, phong phú, kỳ diệu, nhiệm mầu của nó, nếu không con sẽ chỉ thấy “im lặng, vắng ngắt, và… thấy chán quá” như con nhận xét. Như vậy, cả hai mặt “mặc định” và “mặc nhiên” đều cần có sự thận trọng chú tâm quan sát thì đời sống mới không thiên chấp một bên.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lời1) Duy tuệ thị nghiệp nghĩa là công việc chính yếu của người tu là thấy mọi sự mọi vật như nó đang là, không bị ngăn che bởi tưởng là, cho là, phải là, sẽ là của cái ngã vọng niệm.
2) Mục đích tu hành là trở về với nội tâm thanh tịnh trong sáng (Pabhassara citta) và thấy rõ các pháp trong ngoài. Tất nhiên khi tâm đã hoàn toàn thanh tịnh trong sáng (Alahán) thì không còn tham sân si nữa, nhưng tùy trình độ giác ngộ (bậc hữu học) mà còn phiền não ít nhiều.
3) Pháp tướng luôn biến đổi vô thường nhưng pháp tánh không sinh diệt, thí dụ như tánh giác và Niết-bàn. Vì vậy trong Udāna, Tiểu Bộ Kinh, Phật dạy: vì có cái không sinh, không hữu, không tác, không thành (pháp tánh) nên mới giải thoát được sinh hữu tác thành (pháp tướng).
4) Khi thấy được pháp tánh thì tuy sống trong pháp tướng vẫn không bị pháp tướng trói buộc. Chỉ cần thường ứng tánh biết qua sự thận trọng, chú tâm, quan sát mọi sự việc diễn ra hàng ngày nơi thân-tâm-cảnh thì tâm sẽ trở về trọn vẹn tỉnh thức với thực tại thân thọ tâm pháp, không còn bị các khái niệm chế định trói buộc nữa.
5) Chỉ thưởng thức được sự thật hoàn hảo của pháp giới khi đã trở về trọn vẹn tỉnh thức với thực tại. Nếu còn vô minh ái dục thì đó là hưởng thụ với lòng tham ái chứ không phải thật sự thưởng thức thực tánh chân thiện mỹ của pháp.
6) Tâm tùy duyên mà khởi, khởi có đúng có sai, có thiện có ác, tâm không khởi cũng vậy, cho nên vấn đề không phải là tâm có khởi hay không mà có thấy tâm khởi thế nào và tâm không khởi thế nào là đúng pháp hay không đúng pháp.
7) Thân gồm những tế bào. Tế bào có sinh trụ dị diệt. Nếu số tế bào sinh và trụ nhiều thì gọi là thân trẻ, nếu số tế bào dị và diệt nhiều thì gọi là thân già, nếu số tế bào hủy diệt hết thì gọi là thân chết. Đơn giản thế thôi, con lý luận làm gì cho xa thực tế.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiCái đó còn tùy trình độ căn cơ của mỗi hành giả. Trình độ tinh tấn thì đương nhiên phải vận dụng tự lực, vì tưởng rằng nỗ lực cá nhân có thể đưa đến giác ngộ giải thoát. Trình độ đức tin thì tất yếu nương vào tha lực, vì tưởng rằng một năng lực tối cao nào đó có thể cứu rỗi mình. Cả hai trình độ trên đều xuất phát từ nỗ lực của bản ngã dù dưới hình thức tự hoặc tha. Còn trình độ trí tuệ thì tùy pháp hành (không có tự hoặc tha) nên chỉ cần thận trọng chú tâm quan sát, hay trở về trọn vẹn tỉnh thức với thực tại tự nhiên như nó đang là, mới có thể sống tùy duyên thuận pháp vô ngã vị tha. Đức Phật tùy căn cơ mà chỉ dạy nhưng rốt ráo vẫn là căn cơ trí tuệ mới có thể hoàn toàn giác ngộ giải thoát được.
Ngài Ananda lúc đầu nỗ lực tinh tấn nhưng không đi tới đâu, cho đến khi mệt mỏi căng thẳng buông ra nghỉ ngơi vô sự thì liền thuận pháp mà chứng quả Vô Sanh. Còn ông Bāhiya thì khi nghe Phật dạy: Trong thấy chỉ thấy thôi, trong nghe chỉ nghe thôi…, trong biết chỉ biết thôi, không có cái ngã Bāhiya trong đó… thì ông lập tức chứng quả Alahán, vì ông thuộc căn cơ trí tuệ, ngay đó liền rỗng lặng trong sáng vô ngã thuận pháp. Như vậy ai trình độ thế nào thì cứ hành theo trình độ của mình rồi từ đó mà chuyển hóa chứ không thể đồng hóa căn cơ được.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiKhi nhận thức sai thì hành vi (thân, khẩu, ý) xấu là lẽ đương nhiên. Nhưng nếu qua sự sai xấu này mà biết chiêm nghiệm học hỏi để tự điều chỉnh nhận thức và hành vi cho đúng tốt thì đó chính là sự tiến hóa trong trí tuệ và đạo đức. Thấy được sự sai xấu là đã có lương tâm. Lương tâm giúp con ăn năn, chừa cải, đó là hướng thiện; còn bản ngã thì ray rứt, hối tiếc, sợ hãi, lo âu, đó là hướng bất thiện.
“Thề độc” chỉ là biểu hiện sự nóng giận nhất thời thiếu chín chắn do bản ngã bị va chạm, nên thực ra nó chỉ là lửa rơm bùng lên rồi vụt tắt chẳng có hiệu ứng gì nhiều. Trừ phi con ôm giữ, ghi khắc nó trong lòng như “mối hận ngàn thu” thì nó mới trở thành độc tố âm ỉ gặm nhắm chính thân tâm con, chứ không chắc gì đã hại được ai. Thí dụ, con ganh tỵ với một người bạn học giỏi hơn mình và thề độc cho người bạn đó học kém đi, nhưng người bạn ấy vẫn chăm chỉ học hành thì làm sao mà kém đi được, chỉ là lòng ganh tỵ tự hại con thôi.
Vậy vấn đề không phải là lo sợ, bứt rứt mà là nhận ra sự sai xấu để tự chuyển hóa nhận thức và hành vi nơi chính mình. Đừng sợ sai lầm mà chỉ sợ không nhận ra sự sai lầm của mình để chuyển hóa. Trí tuệ và đạo đức đích thực có được chính là nhờ nhận ra điều sai xấu. Con đã nhận ra được sự sai lầm, đó chính là một bước chuyển hóa lớn trong nhận thức bản thân. Bước thứ hai là chuyển hóa hành vi, con chỉ cần hành động, nói năng, suy nghĩ hướng ngược lại với lỗi lầm trước đây là được. Thí dụ, con không ganh tỵ với bạn học giỏi ấy nữa, không thề độc hại bạn ấy mà tôn trọng và hoan hỷ với sự thành công của bạn ấy, biết học hỏi cái hay của bạn ấy để chính mình cũng ngày càng học giỏi hơn, như vậy không tốt hơn là chỉ ngồi hối tiếc thôi sao?
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiĐạo Nho có câu “Tận nhân lực tri thiên mệnh” nếu hiểu theo Phật Pháp là cứ làm tốt nhất theo khả năng rồi qua đó học ra bài học chân lý của pháp. Và đây chính là nguyên lý cốt lõi của đạo Phật mà thầy thường nói đến là “Tùy duyên thuận pháp, vô ngã vị tha”, trong đó nhận thức và hành vi là mấu chốt chủ đạo. Giúp người khác một cách cụ thể là hành vi, qua đó học ra thế nào là đúng sai, xấu tốt, thiện ác, nhân quả, sinh diệt v.v… là nhận thức. Tu chính là quá trình chuyển hóa nhận thức và hành vi ngay đây và bây giờ. Trong quá trình đó hành vi biểu hiện nhận thức và nhận thức soi sáng hành vi. Nên trong Dīgha Nikāya đức Phật dạy giới luật giúp trí tuệ phát huy và trí tuệ giúp giới luật hoàn hảo. Giới luật là hành vi, trí tuệ là nhận thức, cả hai bổ túc cho nhau trong sự giác ngộ viên mãn.
“Cứ để yên cho mọi người học bài học của mình” nghĩa là không can thiệp bởi khái niệm, quan niệm, quy ước, mẫu mực nào… của lý trí. Nếu con áp dụng điều này như một công thức của lý trí thì đó mới chính là can thiệp chứ không phải bằng một hành vi cụ thể. Thí dụ, con thấy một em bé băng qua đường một cách nguy hiểm, con có thể lập tức đưa tay giữ em lại khi một chiếc xe đang phóng nhanh trước mặt. Lúc đó nếu con áp dụng công thức “cứ để yên…” thì đã bị lý trí can thiệp chứ không để yên chút nào. Nhưng khi thấy và làm một cách trực tiếp, tự nhiên và trong sáng thì cả nhận thức và hành vi đều vô vi nên vẫn là hành động không tạo tác (duy tác) như thế lại có nghĩa là để yên. Lão Tử nói “Vô vi nhi vô bất vi” là vậy. Những lời Phật dạy hoặc những gì thầy trình bày là để soi sáng sự thật chứ không phải những công thức để áp dụng một cách lý trí. Chính vì không thấy chỗ trọng yếu này nên chánh pháp mới trở thành mạt pháp.